Khi nghiên cứu trong phòng thí nghiệm (thực hiện trong ống nghiệm), các nhà khoa học có thể xác định kháng thể có trung hòa virus và ngăn không cho virus nhân lên trong tế bào hay không nhưng đối với con người ngoài môi trường lại khó hơn nhiều.
TS bệnh truyền nhiễm Denis Leclerc ở Đại học Laval giải thích: "Chúng ta đã biết các kháng thể trung hòa có trong máu hoạt động hiệu quả nhưng vẫn có khả năng virus nhân lên trong các tế bào mũi vì kháng thể lưu thông ở mũi ít hơn".
Vấn đề này đã từng xảy ra. Ví dụ vaccine ngừa bại liệt dạng tiêm do Jonas Salk phát triển và được sử dụng từ năm 1955 đạt hiệu quả gần 90% nhưng không ngăn ngừa được virus lây nhiễm qua đường miệng.
Đến khi có vaccine dạng uống do Albert Sabin phát triển từ năm 1961, bệnh bại liệt mới được loại trừ thành công.
Nhiều thử nghiệm lâm sàng được thực hiện để tăng hiệu quả vaccine COVID-19 và giảm nguy cơ xảy ra tác dụng phụ bằng cách so sánh số người mắc bệnh giữa nhóm đã tiêm vaccine với nhóm nhận giả dược. Song để biết vaccine ngăn ngừa lây nhiễm đến mức nào, các hãng dược phải áp dụng cách thử nghiệm khác.
Họ lấy mẫu dịch mũi họng thường xuyên từ các tình nguyện viên không có triệu chứng mắc bệnh, sau đó phân tích mẫu bằng phương pháp PCR. Mục đích để so sánh xem nhóm đã tiêm vaccine có kết quả dương tính ít hơn nhóm dùng giả dược hay không đối với người nhiễm không triệu chứng. Song đến nay số lượng mẫu phân tích không đủ để giải đáp câu hỏi này.
Tháng 12/2020, Moderna đã cung cấp dữ liệu sơ bộ chứng minh so với nhóm nhận giả dược, nhóm được tiêm liều vaccine đầu tiên có số ca nhiễm không triệu chứng ít hơn gần gấp ba lần. Thật ra thử nghiệm chỉ được thực hiện hai lần cách nhau một tháng, vì vậy chưa đủ.
AstraZeneca và Janssen (công ty con của Johnson & Johnson) cũng trình dữ liệu với kết luận về khả năng giảm số ca nhiễm không triệu chứng nơi người đã tiêm vaccine nhưng số lượng thử nghiệm không đủ để kết luận điều gì.
Họ so sánh tỷ lệ ca dương tính của các nhân viên y tế giữa nhóm đã tiêm vaccine với nhóm chưa tiêm. Kết quả cho thấy vài ngày sau khi tiêm liều đầu tiên, số ca nhiễm không triệu chứng của hai nhóm gần tương đương. 12 ngày sau, số ca nhiễm trong nhóm đã tiêm giảm ít hơn bốn lần.
Đeo khẩu trang để ngăn ngừa lây nhiễm COVID-19
Việc ra đời những chiếc khẩu trang có khả năng tiêu diệt các loại virus, vi khuẩn đã góp phần vào cuộc chiến phòng ngừa COVID-19.
Nhà sản xuất Wakamono cho biết khẩu trang sản xuất theo công nghệ mới của họ được bổ sung khả năng tiêu diệt các loại virus, vi khuẩn ngay khi tiếp xúc hoặc đi xuyên qua lớp vải diệt virus (Nano Gecide) của khẩu trang mặc dù có cấu tạo bên ngoài không khác các loại khẩu trang y tế thông thường.
Kết quả ở các phòng kiểm nghiệm uy tín tại Đức, Mỹ, Canada, Ấn Độ cho thấy lớp vải Nano Gecide trong khẩu trang Wakamono giúp tiêu diệt virus, vi khuẩn, trong đó có nCoV đến 99%. Loại khẩu trang này đã được CE của châu Âu công nhận và cho phép ghi trên nhãn hộp. Wakamono là một trong những loại khẩu trang đầu tiên trên thế giới có khả năng tiêu diệt nCoV.
Theo kiểm nghiệm tại các phòng kiểm nghiệm Canada, Ấn Độ, Singapore, Việt Nam, khẩu trang Wakamono còn có khả năng tiêu diệt những virus có màng bao gồm nCoV, H1N1... và virus không có màng (Poliovirus-I...) với tỷ lệ từ 90% đến 99%.
Theo đại diện Wakamono, khẩu trang này được dùng tại một số cơ quan y tế, đặc biệt tại các tuyến đầu chống dịch và những khu vực có bùng phát mạnh tại Châu Âu, Mỹ, Australia.
Wakamono được các nhà khoa học Việt Nam sáng tạo ra tại Khu công nghệ cao TP HCM với thế mạnh chuyên về nghiên cứu công nghệ và sản xuất các nguyên liệu Nano Biotech, đã ứng dụng công nghệ này để sản xuất loại khẩu trang. Các nhà khoa học tại Wakamono mất nhiều tháng để nghiên cứu ra hợp chất Bionano từ thiên nhiên (được đặt tên là Gecide) để giúp tiêu diệt chủng Human Coronavirus, góp phần ngăn ngừa dịch bệnh.
Khẩu trang ra đời vào tháng 4/2020 và công ty mất khoảng 6 tháng để thực hiện các kiểm nghiệm tại các phòng kiểm nghiệm trên thế giới. Loại khẩu trang này đạt được tiêu chuẩn của bộ thử nghiệm ASTM F2100 (Level 3) của Mỹ và EN 14683 (Type IIR) của châu Âu. Đến nay, Wakamono đạt chứng nhận của Cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA); được CE (châu Âu), TGA (Australia) cấp phép và được lưu hành ở các quốc gia này.
Với việc lây nhiễm chéo từ khu điều trị bệnh viện hoăc khu cách ly và việc lây nhiễm cao hơn khi biến chủng mới từ Ấn Độ và Anh xuất hiện tại Việt Nam. Việc nghiên cứu và sản xuất hàng loạt mặt hàng này, nhà sản xuất hy vọng góp phần chung tay bảo vệ sức khỏe cho người dân, ngăn chặn tình trạng lây nhiễm COVID-19.
Bình luận