Chiều 11/6, TAND cấp cao tại Hà Nội tiếp tục phiên tòa phúc thẩm xét xử Phan Văn Anh Vũ (Vũ “nhôm”) cùng 2 cựu Thứ trưởng Bộ Công an và các đồng phạm.
Trước bục khai báo, bị cáo Trần Việt Tân (cựu Thứ trưởng Bộ Công an) cho biết vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo xin xem xét lại tội danh.
Bị cáo Tân cho rằng, lời khai của 2 bị cáo Phan Hữu Tuấn và Nguyễn Hữu Bách về hoạt động của công ty bình phong có chỗ chưa chuẩn xác.
Tại thời điểm tháng 10/2009, bị cáo là Tổng cục phó Tổng cục Tình báo (Tổng cục V), đến tháng 12/2009 là Tổng cục trưởng và sau đó là Thứ trưởng Bộ Công an.
Trong thời gian ở Tổng cục V, bị cáo được giao phụ trách, chỉ đạo hoạt động tình báo của B61, khi là Thứ trưởng, bị cáo tiếp tục được theo dõi Tổng cục V.
Trả lời câu hỏi của HĐXX, bị cáo thừa nhận với tư cách là người phụ trách chung, bị cáo phải chịu trách nhiệm về những vi phạm của cấp dưới.
Trong quá trình là Tổng cục trưởng Tổng cục V, bị cáo không ký văn bản nào liên quan đến việc Tổng cục V giới thiệu 2 tổ chức bình phong là Công ty cổ phần Xây dựng Bắc Nam 79 và Công ty Nova 79.
Tuy nhiên, thời điểm là Thứ trưởng Bộ Công an, bị cáo ký tổng cộng 6 văn bản liên quan đến 3 tài sản là dự án 16 Bạch Đằng, 15 Thi Sách và số 8 Nguyễn Trung Trực. Toàn bộ các văn bản này là do Tổng cục V trình và có báo cáo của Phan Hữu Tuấn.
Với dự án 16 Bạch Đằng, cựu Thứ trưởng Trần Việt Tân ký 2 văn bản, trong đó có nội dung đề nghị UBND TP Đà Nẵng xem xét phê duyệt giá đất.
Trả lời HĐXX, bị cáo Trần Việt Tân cho biết khi được nghe Phan Hữu Tuấn báo cáo về dự án này, bị cáo được biết đất được giao rồi nhưng vẫn còn chậm nên ký văn bản thúc đẩy.
Bị cáo thừa nhận chưa nghiên cứu luật đất đai, chưa nghiên cứu kỹ văn bản cũng như báo cáo của cấp dưới.
Với dự án số 8 Nguyễn Trung Trực, bị cáo Trần Việt Tân cũng ký 2 văn bản, trong đó có văn bản báo cáo Phó Thủ tướng để xin phê duyệt giá đất phục vụ cho công tác ngành vào cuối năm 2011.
Bị cáo cho biết không nhớ kỹ ai là người trình những văn bản này, chỉ biết là có văn bản của Tổng cục V báo cáo về công ty bình phong xin thuê đất ở số 8 Nguyễn Trung Trực và được UBND TP.HCM đồng ý.
Tài liệu trong hồ sơ thể hiện, văn bản do Phan Văn Anh Vũ ký đề nghị gửi ông Nguyễn Thành Tài nói Công ty Bắc Nam 79 có tờ trình gửi UBND TP.HCM xây dựng khu thương mại, cao ốc, văn phòng, khách sạn, căn hộ... ở số 8 Nguyễn Trung Trực.
Chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo văn bản này có đúng với nội dụng văn bản báo cáo bị cáo không? “Rõ ràng Phan Văn Anh Vũ đề nghị TP.HCM được xin đầu tư xây dựng khu thương mại, văn phòng ở số 8 Nguyễn Trung Trực chứ không phải để xây dựng trụ sở, như vậy là mâu thuẫn, không giống nhau. Như vậy có chính xác không?”. Bị cáo Trần Việt Tân trả lời “chưa chính xác”.
Một lần nữa chủ tọa phiên tòa hỏi việc ký văn bản như vậy là do bị cáo tin tưởng hay đồng tình với cấp dưới?
Bị cáo Trần Việt Tân tiếp tục thừa nhận do “tôi tin tưởng anh em cấp dưới”.
Với dự án 15 Thi sách, bị cáo Trần Việt Tân cũng ký 2 văn bản, trong đó có nội dung Bộ Công an đề nghị TP.HCM tạo điều kiện, hỗ trợ hoàn thiện cơ sở pháp lý, sớm đưa dự án vào triển khai. Bị cáo tiếp tục thừa nhận việc ký các văn bản là do “tin vào anh em cấp dưới”.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát hỏi lý do tại sao bị cáo không kiểm tra, xem xét ký mà vẫn ký các văn bản.
Bị cáo Trần Việt Tân giải thích: “Có rất nhiều mảng công việc, tôi được phân công phụ trách Tổng cục V, nhưng trong một thời gian rất dài và số lượng hàng ngày bao nhiêu văn bản như vậy tôi không thể nhớ được.
Tôi không phải là người trực tiếp mà chỉ nghe báo cáo từ Tổng cục V và tin anh em và làm”.
Đại diện Viện Kiểm sát cho biết chỉ quy trách nhiệm bị cáo với hành vi do tin tưởng vào cấp dưới và không kiểm tra.
Bước lên bục khai báo, bị cáo Bùi Văn Thành trả lời các câu hỏi của HĐXX liên quan đến dự án 129 Paster, bị cáo thừa nhận những nội dung khai báo của các bị cáo là đúng.
Chủ tọa phiên tòa cho hay bị cáo chỉ có một hành vi liên quan đến tài sản 129 Paster.
Vào thời điểm xử lý, bán tải sản này, bị cáo Thành là Thứ trưởng phụ trách mảng hậu cần kỹ thuật trong đó liên quan đến quản lý, chỉ đạo hoạt động của Tổng cục Hậu cần Kỹ thuật (Tổng cục IV). Bị cáo là người ký văn bản số 150 trình Thủ tướng nội dung đề nghị xuất phát từ đề xuất của Tổng cục V.
Cũng giống như bị cáo Trần Việt Tân, việc ký kết các văn bản của bị cáo được cho là do tin tưởng vào cấp dưới và không nghiên cứu, kiểm tra kỹ lưỡng.
Tại phần xét hỏi, bị cáo Bùi Văn Thành cho biết giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị giảm hình phạt và xin được hưởng án treo.
Bình luận