Kỳ 2: Những thanh kiếm bí ẩn ở Việt Nam: Thanh kiếm ma ám của người Lào
Kỳ 1: Huyền thoại kiếm báu của người Dao
Thanh kiếm ma ám
Những ngày lang thang ở vùng rừng rú hoang rậm Điện Biên Đông (Điện Biên), tôi được nghe nhiều câu chuyện kỳ bí về ma quỷ. Vùng đất Điện Biên Đông núi cao, rừng rậm, sắc tộc đa dạng, nơi có những dân tộc ít người nhất Việt Nam, như Lào, Xinh Mun, Khơ Mú… và có lẽ cũng là nơi có nhiều "ma" nhất nước. Từ gốc cây, ngọn cỏ, hòn đá, con suối, góc núi… đều gắn với con ma nào đó. Nào là ma gà, ma núi, ma sông, ma suối, ma cây, ma ngũ hải, ma xó... Thậm chí, là ma cà rồng, thứ ma tưởng như chỉ có ở phương Tây xa xôi, cũng hiện diện ở đất này, từng gây nên bao chuyện tang tóc, nghi kỵ.
Nhưng, câu chuyện về thanh kiếm của người Lào, bị ám bởi ma xó, do thầy giáo Hoàng Quốc Huy, hiệu trưởng ở Trường THCS Phì Nhừ (Điện Biên Đông) kể, thì quả thực kỳ lạ. Theo anh Huy, bản thân anh không bao giờ tin vào chuyện ma quỷ, nhưng khi chứng kiến cảnh ông thầy cúng nhỏ thó người Lào, ở Mường Luân cúng ma, bị con ma xó nhập vào người, nhảy múa tưng tưng, húp cả bát mỡ sôi trong chảo nóng, thì quả thực khiến anh khó lý giải theo lẽ thông thường. Nhưng, kinh dị, kỳ quái hơn, là khi "ma xó" nhập vào thanh kiếm, khiến thanh kiếm dựng đứng bằng mũi không đổ, thì còn khó tin hơn… Chuyện thật quái lạ, không thể tin nổi, nhưng tôi cứ lần dò, hỏi đường, tìm đến "vương quốc người Lào", để gặp ông thầy cúng kỳ quái ấy, với thanh kiếm ma ám, gieo rắc nỗi hoài nghi, và nỗi sợ hãi với cư dân vùng đất sơn cùng thủy tận này.
Đường đèo dốc ngược, quanh co đến cả trăm km từ TP. Điện Biên Phủ, mới đến xã Mường Luân. Ngôi tháp cổ xây dựng từ khoảng thế kỷ 15-16, cao bằng ngọn cây, hơi nghiêng mình soi bóng xuống dòng sông Mã. Dòng sông Mã chảy qua Thanh Hóa hùng vĩ như vậy, hoặc qua Sơn La dữ dằn, mà ở đây chỉ nhỉnh hơn con suối. Những tảng đá lô nhô giữa sông, những bãi cát vàng phẳng phiu hai bên bờ, thoai thoải, cảm giác như có thể xắn quần lội qua sông Mã.
Ngay cạnh tháp Mường Luân cổ kính, là cây cầu treo. Người dân trong vùng bảo, đi qua cây cầu ấy, đến đầu bản Mường Luân, thì hỏi nhà ông Lò Văn Pỉn, thầy cúng nổi tiếng nhất trong cộng đồng người Lào ít ỏi chỉ khoảng 10 ngàn người trú ngụ ở Tây Bắc Việt Nam. Người Lào trân trọng gọi các ông thầy cúng là Mo Lăm. Họ là kho báu các giá trị truyền thống, họ thuộc nhiều dân ca, truyện cổ, biết thổi khèn, nhảy múa, chữ viết cổ…
Vòng vèo mãi, rồi lội bờ cát ngược sông Mã một hồi, thì cũng tìm thấy nhà ông thầy mo Lò Văn Pỉn. Chỉ có cô con dâu ở nhà. Trông cô gái độ tuổi trăng tròn, mới 16-17, mà đã ôm con à ơi. Thiếu nữ Lào ấy khá nhanh nhẹn, bảo tôi ngồi chờ, cô địu con chạy lên nương gọi bố chồng về. Nhoáng cái, đã thấy cụ ông móm mém, hom hem quần ống ngắn, ống cao bước vào nhà. Người Lào ở nhà sàn, nhưng thầy mo Lò Văn Pỉn lại ở nhà đất. Nhà có 3 gian. Vợ chồng người con út ở gian ngoài, ông ở gian trong, còn gian phía trong, theo lời ông, là nơi thờ con "ma xó" và thanh kiếm báu truyền đời của tổ tiên.
Biết tôi nhà nhà báo, lại mãi Hà Nội lên, thầy mo Pỉn rất vui. Ông mở chiếc hòm sắt cũ kỹ ở đầu giường, lôi ra "trình báo" mấy tấm giấy khen của tỉnh, vì có công trong việc giữ gìn, bảo tồn bản sắc văn hóa người Lào. Hóa ra, thầy mo Pỉn cũng đa năng lắm, tham gia nhiều tiết mục văn nghệ. Ông đúng là kho báu văn hóa dân gian của người Lào. Ông với chiếc trống da trâu treo trên tường đánh bập bùng vài điệu cho tôi nghe, rồi lấy chiếc kèn lớn thổi tù tù, khiến khung cảnh rừng rú hoang rậm thêm phần lãng mạn, hoang hoải.
Dè dặt hỏi về thanh kiếm báu bị ma xó ám như lời đồn của cư dân bên bờ thượng nguồn sông Mã, tưởng thầy mo Lò Văn Pỉn sẽ chối, ai dè ông khẳng định là có. Câu chuyện về thanh kiếm báu bị ma xó ám, làm nhiều nhiệm vụ thiêng liêng trong văn hóa cộng đồng bộ tộc Lào quả thực đầy tính huyền bí, ma mị, nhưng không kém phần hấp dẫn. Ông Lò Văn Pỉn dẫn tôi ra phía trái nhà, chỉ tay qua con sông Mã, về phía ngọn tháp cổ nằm dưới tán những tán cây cổ thụ và bảo rằng, truyền thuyết về thanh kiếm báu có liên quan đến cái tháp cổ, biểu tượng của đời sống văn hóa tâm linh của người Lào. Bản thân ông Lò Văn Pỉn không biết thanh kiếm đó có từ khi nào, nhưng theo lời các cụ, thì nó là vật sở hữu của người xây dựng nên những ngôi tháp cổ. Ông cũng chẳng nhớ ông là đời thứ bao nhiêu được sở hữu thanh kiếm đó.
Ông Pỉn sinh năm 1944, năm nay 71 tuổi. Tuổi thơ của ông cùng những đứa trẻ người Lào lớn lên quẩn quanh bên chân ngọn tháp và lam lũ dưới dòng sông Mã. Trước đây, cạnh tháp có một ngôi chùa, trong chùa có nhiều tượng quý, trong đó, có pho tượng vàng ròng. Pho tượng vàng ròng chính là hình ảnh của người dựng lên ngôi tháp. Dựng xong tháp, con cháu đã đúc tượng ông, đặt trong ngôi chùa để thờ. Thế nhưng, năm 1964, Mỹ ném bom bắn phá miền Bắc, đã thả bom xuống ngọn tháp, nhưng bom không trúng tháp, mà trúng chùa. Ngôi chùa bị san phẳng, giờ chỉ còn dấu tích. Pho tượng quý đó bị vùi lấp, rồi bị kẻ trộm bứng đi. Bao năm qua, những người Lào già cả vẫn nhớ thương pho tượng ấy, mong nó quay trở về, để dựng lại chùa, thờ cúng, nhưng không thấy đâu. Về ngôi tháp, thì không ai còn nắm rõ nguồn gốc một cách cụ thể, cũng không có ghi chép nào kỹ càng, chỉ có những câu chuyện truyền miệng vẫn còn kể lại cho các thế hệ sau.
Vào đầu thế kỷ 11, bên dòng sông Mã, có hai mẹ con người Lào sống chung với nhau. Chàng trai tên Thần, mồ côi cha, nhưng lớn nhanh, tuấn tú, giỏi giang cung kiếm, sức mạnh hơn người. Chàng trai trẻ như chỗ dựa của bản làng, một mình chống lại cướp bóc, tiêu diệt thú dữ. Đến tuổi lấy vợ, bà mẹ đánh tiếng tuyển vợ cho con. Gái ở khắp nơi tìm đến ứng tuyển. Trong số đó, có 12 cô quá xinh đẹp, giỏi giang, nên bà lúng túng, không biết chọn lựa thế nào. Bà mẹ để con trai tự quyết định lựa chọn một trong số 12 người con gái đó. Chàng trai tên Thần cũng không biết chọn cô nào, nên… chọn tất. Không ngờ, cả 12 cô đều vui vẻ chấp nhận chia sẻ chồng cho nhau.
Ngày đó, vùng đất này rừng rậm, thú nhiều, người ít, nên bà mẹ muốn con trai đẻ nhiều con, để cư dân thêm đông đúc. Một hôm, bà mẹ dẫn con ra bờ sông Mã, chỉ vào đàn vịt ở dưới sông và bảo: "Con thấy không, mẹ nuôi 30 con vịt, mà chỉ có 1 con đực. Một con đực quan hệ với 29 con cái cơ đấy!". Cậu con trai nhìn đàn vịt và bảo: "Vâng! con biết rồi mẹ ạ!". Ngày mùng 10, tháng 1 âm lịch năm 1012, cách đây hơn 1.000 năm, chàng trai bắt con vịt đực ăn thịt. Ăn xong con vịt, chàng trai tên Thần thấy mình khỏe hơn nữa. Đêm nào anh ta cũng quan hệ với lần lượt 12 vợ mới thôi. Cô vợ nào cũng được Thần chiều, nên vô cùng hạnh phúc, thỏa mãn, yêu chiều Thần hết sức. Người mẹ không tin lắm, còn hỏi dò: "Con à, con lấy những 12 vợ, có sinh hoạt nổi không?". Thần bảo: "Mẹ cứ yên tâm, con khắc lấy vợ, thì khắc chiều được vợ. Mẹ sẽ sớm có cháu bồng bế thôi".
Vài tháng sau, cả 12 cô đều mang bầu, bụng to vượt mặt. Bà mẹ tủm tỉm cười bảo: "Con mẹ sao mà khỏe thế?". Miệng bà nói vậy, nhưng trong bụng bà không tin con mình lại khiến cả 12 cô vợ đều mang bầu được. Bà sợ, những cô con dâu lén lút với những người đàn ông khác mà mang bầu. Để thử xem con trai có "khỏe" thật không, hay là người khác giúp, một đêm bà chui vào giường, đuổi cô con dâu ra ngoài, rồi nằm im.
Đêm ấy, Thần đi uống rượu nhà bạn, say lướt khướt rồi mới về nhà. Thần ngủ với lần lượt từng cô vợ. Quan hệ với "người vợ" cuối cùng xong, thì "người vợ" ấy bảo: "Con không nhận ra mẹ à?". Anh chàng Thần giật mình, rồi khóc rống lên: "Thôi chết rồi. Giờ con làm thế nào? Ôi, con xin lỗi mẹ". Người mẹ vỗ về bảo: "Thôi, con không khóc nữa. Không sao đâu con. Mẹ biết như thế là con khỏe rồi". Thần lại nói: "Con biết con sai rồi, nhưng ở đây không có nhà tù mà đi, thì giờ làm sao? Mẹ trừng phạt con đi". Người mẹ bảo tiếp: "Người Lào ở đâu, thì ở đó phải có tháp. Vậy con đi làm tháp để chuộc tội đi nhé". Thần vâng lời mẹ.
Năm đó, anh chàng Thần tròn 20 tuổi. Nghe tin Thần đi xây tháp, trai tráng khắp nơi kéo đến xin đi theo Thần để giúp sức. Thần như một vị tướng quân, chỉ đạo xây dựng đâu ra đấy. Mọi người phong anh ta là tướng, là vị thần của người Lào. Anh xây dựng hết tháp nọ đến tháp kia. Công việc bận rộn đến nỗi anh không về thăm vợ, con, thăm mẹ lần nào. Mục đích của anh là xây đủ 12 tháp, ứng với 12 người vợ, và 12 đứa con, rồi mới tìm đường về nhà. Xây cái tháp cuối cùng ở Mường Luân, thì Thần đã tròn 70 tuổi. Tháp xong, ông Thần qua đời. Lính tráng thiêu xác, đặt tro trong tháp, rồi xây dựng ngôi chùa, đặt tượng ông bằng vàng ròng trong chùa, với tướng tá xung quanh. Thanh kiếm của ông được thờ trong chùa.
Sau này, thanh kiếm linh thiêng được trao cho những người có uy tín trong bản Mường Luân. Người có uy tín thường là thầy mo, thầy cúng, là người chăm lo đời sống tinh thần, sức khỏe cho người dân trong vùng, nên kiếm luôn được trao cho họ. Thanh kiếm kỳ lạ của ông Thần - người xây dựng nên 12 tháp cổ dọc sông Mã đã được truyền đến gia đình ông Lò Văn Pỉn. Rồi đời nọ tiếp nối đời kia sở hữu thanh kiếm, hành nghề thầy mo, đến đời ông Pỉn là thứ 5.
Tận mắt thanh kiếm ma ám
Sau khi kể câu chuyện đầy huyễn hoặc quanh thanh kiếm báu truyền đời, ông Lò Văn Pỉn dẫn tôi vào gian trong của ngôi nhà, mà không phải ai cũng dám bước vào. Tôi nghĩ rằng, đó phải là một căn phòng nghi ngút khói hương, bốn bức tường dán đầy bùa ngải, nhưng hóa ra, căn phòng thật giản dị, chẳng có đồ đạc gì đáng giá, cũng không mang nhiều hình ảnh tâm linh, ma mị. Ông Pỉn chỉ lên vách nhà. Phía sát mái có bàn thờ nhỏ bằng miếng gỗ, gồm bát hương và chai rượu. Thanh kiếm treo ngay dưới bàn thờ. Theo lời ông Pỉn, đây là gian phòng thờ ma xó. Hiện tại, con ma xó đang ẩn trong thanh kiếm, nên không có gì đáng ngại. Tuy nhiên, ngoài ông ra, không ai dám bén mảng vào căn phòng này. Với người Lào, ma xó là thứ vô cùng đáng sợ hãi, không ai dám trêu ghẹo, chọc giận.
Trong văn hóa người Lào ở vùng đất xa xôi này, bệnh tật, ốm đau là do con ma, do vậy, người ta không tìm đến bệnh viện, mà nhờ vả vào thầy cúng cao tay. Chỗ dựa tâm linh ở vùng đất người Lào lẻ loi lạc phía này biên giới chính là ông Lò Văn Pỉn. Trong vùng, ai ốm đau, bệnh tật, tang ma, người ta đều nhờ vào pháp lực của ông thầy cúng Pỉn và con ma xó vô hình.
Theo lời ông Pỉn, khi ai đó bị ốm lâu ngày không khỏi, thì họ sẽ mời ông đến chữa bệnh. Ông Pỉn cúng bái, rước thanh kiếm và con ma xó đi theo. Ông còn mang theo một đoạn chỉ trắng, dùng để dệt vải. Ông Pỉn kéo đoạn dây chỉ từ cuộn chỉ to bằng cổ tay cho tôi xem. Tôi kéo nhẹ thì đứt lìa. Tôi có cảm giác cuộn chỉ này đã nhiều năm, mục nát rồi. Ông Pỉn bảo, cuộn chỉ ấy đã ngót trăm năm, nên có phần mục, kéo nhẹ là đứt. Cuộn chỉ đó không phải để dệt vải, mà để làm phép. Ngoài thanh kiếm, thì ông Pỉn mang đến nhà người ốm một đoạn dây chỉ dài 2-3m. Ông Pỉn rút thanh kiếm châm vào bếp than hồng rực. Làm lễ cúng, thỉnh con ma xó về, thì ông Pỉn sẽ yêu cầu 2 người trong gia đình người bệnh kéo nhẹ sợi chỉ, để sợi chỉ hơi căng.
Ông lôi thanh kiếm đỏ lừ, đặt lưỡi kiếm lên sợi chỉ. Nếu sợi chỉ đứt, thì ông bỏ về, không chữa trị cho người bệnh, bởi người đó đã hết mệnh, còn nếu sợi chỉ không bị đứt, dù bị thanh kiếm đỏ rực đè lưỡi lên, thì ông sẽ chữa trị và đảm bảo người bệnh sẽ sống. Tất nhiên, hầu hết những lần thử, sợi chỉ đều không đứt. Câu chuyện này quả thực vô cùng khó tin.
Sau buổi gặp ông Pỉn, tôi ngược ra phía ngôi tháp, gặp ông Lò Văn Nố, 79 tuổi, người già hiểu biết và uy tín của bản người Lào, để hỏi về chuyện này. Ông Nố cũng là thầy cúng, chuyên đi cúng ma, cúng chữa bệnh, và ông khẳng định chuyện thanh kiếm nung đỏ không cứa đứt được sợi chỉ là có thật, ông đã chứng kiến cả trăm lần. Ông Nố không chỉ xem ông Pỉn dùng thanh kiếm nung đỏ không làm đứt sợi chỉ, mà tận mắt cả những lần bố đẻ ông Nố làm việc đó. Theo lời ông Pỉn, lý do sợi chỉ không đứt khi tiếp xúc với lưỡi kiếm nung đỏ, là vì con ma xó đã nhập vào sợi chỉ. Con ma xó đã thông báo cho thầy cúng rằng, người bệnh sẽ được cứu sống.
Để lễ cúng chữa bệnh diễn ra, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế mà gia chủ chuẩn bị lễ lạt. Nhà nghèo thì chỉ cần con gà, còn khá giả thì con dê. Khi con ma xó xuất hiện, ông Pỉn như thể lên đồng, biến thành người khác. Ông rút thanh kiếm, chém đứt đầu con gà, hoặc rơi cổ con dê, lấy máu nhuộm kiếm. Ông Pỉn vung kiếm, múa loạn xạ, trong khi bệnh nhân nằm bất động trên giường. Ông Pỉn vốn già nua, chậm chạp, nhưng lúc này như một võ sư, với đường kiếm uyển chuyển, lúc nhanh, lúc chậm, lúc xé gió vù vù khiến ai nấy đều khiếp đảm. Múa kiếm một hồi, ông Pỉn chợt ngừng lại, lao đến chỗ bếp lửa cháy đùng đùng, lấy chiếc bát con, vục vào nồi mỡ sôi, chạy đến bên bệnh nhân, uống một hơi hết sạch bát mỡ nóng hàng trăm độ C. Uống mỡ xong, ông lại múa kiếm. Múa kiếm một hồi, lại lao đến chỗ bếp lửa, rút con dao nung đỏ lừ, chạy đến chỗ bệnh nhân thè lưỡi liếm vào dao nung đỏ, khiến lưỡi cháy xèo xèo, khiến ai nấy sợ hãi, rùng mình, dựng cả tóc gáy. Ai cũng tin rằng, con ma xó đã nhập vào thầy cúng và đuổi con ma ám trong người bệnh, khiến người này bị ốm. Và thầy cúng biểu diễn những trò đó, để con ma thấy thầy cúng có năng lực phi phàm, sợ hãi mà bỏ đi.
Tuy nhiên, màn kinh dị nhất, không chỉ khiến người, mà cả quỷ ma đều sợ, đó là màn dùng thanh kiếm báu ngoáy mũi, ngoáy tai, cắm phập vào chân. Thanh kiếm ấy vốn sắc lẹm, chém một hai nhát đứt đầu con dê, thế nhưng, ông Pỉn cứ cầm kiếm ngoáy lỗ mũi, mà máu không hề chảy ra. Ngoáy mũi xong, ông lại dùng lưỡi kiếm chọc vào lỗ tai và ngoáy liên tục. Xong ông ngồi xuống ghế, cầm cầm kiếm chọc thật mạnh vào bàn chân. Kiếm chọc nhanh đến nối nhìn loang loáng. Thế nhưng, kỳ lạ thay, mũi kiếm xuyên đúng vào kẽ chân, giữa những ngón chân sin sít, mà rõ ràng không đâm vào chân. Sau màn đâm kinh dị đó, ông đặt lưỡi kiếm vào kẽ tay, kẽ chân, rồi cò cưa như xẻ gỗ, thế mà thanh kiếm sắc lẹm cứ trơn tuồn tuột, không hề làm đứt tay, chân.
Màn biểu diễn kỳ lạ nhất, cũng là màn cuối cùng, là ông Pỉn cắm thanh kiếm lên bát gạo đặt trên chiếc bàn bày giữa nhà, và thanh kiếm vẫn đứng vững, không hề đổ. Thậm chí, ông đặt mũi thanh kiếm trên bàn, mũi kiếm nhọn hoắt không xuyên xuống mặt bàn, nhưng thanh kiếm cũng không đổ. Nhiều người thấy lạ, còn thử treo áo lên chuôi kiếm, nhưng thanh kiếm vẫn đứng như có thế lực vô hình can thiệp. Lúc này, theo lời ông Pỉn, ma xó đã rời khỏi thân thể của ông, nhập vào thanh kiếm và tạo nên điều kỳ dị đó. Kể xong chuyện, ông Pỉn hẹn rằng, khi nào có lễ cúng ma, ông sẽ gọi tôi lên, để tận mắt và ghi hình.
Tôi trình bày ý tưởng muốn được xem thanh kiếm. Ông Pỉn chắp tay cúng, nói tiếng Lào, gieo đồng xu, rồi mang thanh kiếm cho tôi. Thanh kiếm khá nặng. Tôi kéo nhẹ chuôi, thanh kiếm tụt ra khoảng chục cm, ông Pỉn hoảng hồn xông đến cướp lấy thanh kiếm. Mặt ông chợt tái dại. Ông Pỉn dặn tôi không được rút kiếm ra, nhưng tôi chỉ định kéo nhẹ một chút thôi, không ngờ ông sợ hãi đến vậy. Sợ tôi rút kiếm ra, ông Pỉn mang kiếm cất kỹ, rồi mới trò chuyện tiếp. Theo lời ông Pỉn, ma xó ẩn trong thanh kiếm, nên ai rút kiếm ra, sẽ gặp họa. Theo lời ông Pỉn, từ đời bố ông, đến đời ông, đã có 5 người tự tiện rút kiếm ra nghịch, đều nổi điên. Bố ông và ông phải cúng bái rất nhiều, những người đó mới trở lại bình thường. Tôi chẳng tin chuyện rút thanh kiếm ra mà hóa điên, nhưng quả thực, nỗi sợ hãi thực sự hiện trên khuôn mặt ông Pỉn, cũng khiến chùn tay.
Tạm biệt ông Pỉn và bản người Lào giữa rừng thẳm, mong một ngày sớm được trở lại, để chứng kiến buổi cúng ma, tật mắt những chuyện kỳ dị quanh thanh kiếm ma ám.
Video: Cận cảnh thanh kiếm nạm vàng của vua nhà Nguyễn
Bình luận