Bà chính là Nguyễn Nhược Thị Bích (1830-1909), quê ở làng Đông Giang, huyện An Phước, đạo Ninh Thuận (nay là Phan Rang, Ninh Thuận).
Theo sử liệu, bà Bích là con gái của ông Nguyễn Nhược Sơn, nguyên là Thanh Hóa Thừa nguyên Bố chính sứ Hộ lý Tổng đốc, mẹ là bà Thục nhân họ Nguyễn.
Nhờ tư chất thông minh, lại được đi học ngay từ nhỏ nên Nguyễn Nhược Thị Bích sớm nổi tiếng về tài văn chương. Suốt tuổi thơ đi theo cha làm quan ở các tỉnh, đến đâu bà cũng gây ấn tượng bởi sự thông minh của mình.
Năm 1848, bà Bích được tiến cử vào cung cho vua Tự Đức. Trong một buổi ngâm vịnh, vua Tự Đức xướng đề thơ Tảo Mai (Hoa mai sớm nở), bài họa của bà được vua khen, tặng 20 nén bạc, cho sung chức Thượng nghi Viên sư để dạy học trong nội cung.
Sau đó, bà lần lượt được phong: Tài nhân (1850), Mỹ nhân (1860), rồi Quý nhân. Năm 1868, bà được tấn phong là Lục giai Tiệp dư. Thân là Tiệp dư nhưng bà được giao nhiệm vụ dạy học, chăm sóc các hoàng tử. Vua Tự Đức yêu quý bà vì học rộng hiểu nhiều, có đạo đức, lễ nghĩa. Trong cung ai cũng tôn kính nữ giáo viên này.
Bà chính là cô giáo của 3 vị vua nhà Nguyễn, gồm: Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh (dạy Kiến Phúc, Đồng Khánh khi còn làm Thái tử và dạy Hàm Nghi khi đã lên ngôi).
Không chỉ vậy, bà Nhược Bích còn được đi cùng vua trong những buổi vấn an Hoàng thái hậu Từ Dụ về công việc trong triều, hoàng tộc. Một thời gian sau, từ Tiệp dư, bà trở thành thư ký cho Thái hậu Từ Dũ và gần như là người duy nhất được ở gần hầu hạ Thái hậu.
Sinh thời, bà là người sáng tác tập thơ lục bát “Hạnh thục ca” bằng chữ Nôm, gồm 1.306 câu, nói về nhiều sự kiện trong triều, ngoài trấn từ khi người Pháp đem quân xâm lược nước ta. Đây là tác phẩm rất có giá trị về mặt lịch sử, thể hiện sự phẫn nộ của bà về việc Pháp chiếm nước ta, mô tả tình cảnh triều đình Huế di tản ra khỏi kinh thành.
Năm 1892, dưới thời vua Thành Thái, bà Nhược Bích được phong làm Tam Phi Lễ Tần. Đến năm 1909, bà qua đời, thọ 79 tuổi.
Bình luận