Khi đề cập đến chủ đề Việt Nam, ông Kosygin tặng ông Johnson quả đạn pháo 20mm chưa nổ được bắn từ pháo trên chiến cơ Mỹ. Ba tuần trước đó, quả đạn này rơi xuống boong tàu buôn Liên Xô Turkestan đang neo ở Cẩm Phả, Việt Nam.
Trong những năm Mỹ không kích miền Bắc Việt Nam, hoạt động của các tàu Liên Xô cung cấp thiết bị quân sự và hàng viện trợ cho miền Bắc và các lực lượng yêu nước của miền Nam không chỉ gặp nhiều khó khăn mà còn có thiệt hại về người.
Số phận của tàu buôn Turkestan thuộc công ty Tàu biển Viễn Đông của Liên Xô là một ví dụ.
Đầu năm 1967, tàu Turkestan có 3 lần ghé vào các cảng Việt Nam. Trong chuyến đi thứ hai vào tháng 4/1967, tàu cung cấp hàng viện trợ từ Vladivostok đến Hải Phòng.
Khi đó, thủy thủ đoàn tổ chức cuộc mít tinh ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của những người yêu nước Việt Nam và tỏ ý muốn trở thành thành viên tập thể của Hội hữu nghị Xô - Việt. Bức điện thông báo về yêu cầu này được gửi đến Matxcơva.
Chỉ một ngày sau, họ nhận được bức điện trả lời của Chủ tịch Hội Hữu nghị Xô - Việt, Anh hùng Liên Xô và Anh hùng Lao động Việt Nam phi hành gia German Titov: "Chúng tôi vui lòng thực hiện yêu cầu của thủy thủ đoàn".
Cuối tháng 5/1967 tàu buôn Turkestan thực hiện chuyến đi thứ 4 đến Việt Nam, lần này neo đậu dỡ vật liệu xây dựng tại vùng nước cảng Cẩm Phả, rồi bắt đầu tiếp nhận than Hòn Gai để vận chuyển đến Nhật Bản.
Ngày 2/6, không quân Mỹ không kích thành phố, hai chiến cơ Mỹ bổ nhào xuống tàu buôn Turkestan, thả một trái bom nổ cách tàu vài chục mét, sau đó nã pháo và hàng tràng súng liên thanh cỡ lớn.
Tàu Turkestan bị thủng 67 lỗ, buồng lái và cây cầu trên tàu bị hỏng, 7 thủy thủ bị thương, một người trong số họ đã hy sinh, đó là thợ điện Nikolai Rybachuk.
"Chiếc tàu chúng tôi đã có tất cả các dấu hiệu của nhà nước Xô viết. Trên cột buồm phía sau treo lá cờ Liên Xô, trên ống có nền đỏ cùng búa liềm vàng.
Tàu đang neo đậu cách bờ biển khoảng 400 m, xung quanh không có tàu nào khác. Tàu chúng tôi trong tầm nhìn phi công Mỹ và họ bắn vào phần trên của tàu, là nơi ở và làm việc của thủy thủ đoàn. Họ bắn rất chính xác và không bắn viên đạn nào vào phần mũi hoặc đuôi tàu, nơi không có người", thuyền trưởng Viktor Sokolov cho biết.
Sau vụ không kích này Giám đốc cảng Cẩm Phả Lê Văn nói: "Tôi chứng kiến vụ pháo kích tàu Turkestan. Tôi khâm phục sức chịu đựng và lòng dũng cảm của các thủy thủ Liên Xô.
Chúng tôi rất thân mật với họ. Hầu hết các tàu ghé vào cảng chúng tôi đều là tàu Liên Xô. Các thủy thủ Liên Xô thường giúp chúng tôi trong các công việc dỡ hàng, giúp sửa chữa thiết bị kỹ thuật.
Các nhân viên cảng biết ơn chân thành các thủy thủ Liên Xô. Và chúng tôi sẽ nhớ mãi các thủy thủ trên tàu Turkestan đã đổ máu vì chiến thắng của những người yêu Việt Nam".
Ngày 5/6/1967 tàu Turkestan treo cờ rủ rời cảng Cẩm Phả. Vài tháng sau đó, sau khi được sửa chữa, Turkestan lại đến Việt Nam với hàng viện trợ.
Chính quyền Mỹ đã 3 lần phủ nhận tham gia tấn công tàu Liên Xô. Ban đầu Lầu Năm Góc tuyên bố, họ không có thông tin về vụ máy bay Mỹ không kích tàu Liên Xô. Sau đó họ quả quyết, tàu Liên Xô bị hư hại có nguyên nhân từ pháo phòng không Việt Nam.
Chỉ sau khi đại sứ Liên Xô tại Mỹ thông báo với Ngoại trưởng Mỹ Dean Rusk tìm được quả đạn pháo chưa nổ được bắn từ khẩu pháo Mỹ trên boong tàu Turkistan, Washington buộc phải thừa nhận máy bay Mỹ chịu trách nhiệm về vụ không kích tàu Liên Xô và Thủ tướng Liên Xô tặng Tổng thống Mỹ quả đạn ấy.
Đến đầu những năm 1970, công ty Tàu biển Viễn Đông của Liên Xô nhận con tàu mới được đặt tên Nikolai Rybachuk, thợ điện thiệt mạng tại Cẩm Phả và chiếc tàu này cũng thực hiện các chuyến đi Việt Nam.
Bình luận