(VTC News) - Nhiều người cho rằng, Chổm là tên riêng dùng thuở nhỏ, còn Chúa là tước vị, theo cách gọi của người địa phương.
Kỳ 2 (kỳ cuối): Nguồn gốc biệt danh Chúa Chổm
Rất nhiều ý kiến khác của các học giả và nhân dân cả nước cho rằng Chúa Chổm chính là vua Lê Trang Tông (húy là Lê Ninh hoặc Lê Duy Ninh, ở ngôi từ năm 1533 – 1548), người được Thái sư Nguyễn Kim phò lập tại miền thượng du xứ Thanh. Tuy lên ngôi trước và lớn tuổi hơn, nhưng trong vai vế dòng tộc, Lê Duy Ninh thuộc hàng cháu, gọi Lê Duy Bang bằng bác.
Cũng như với vua Lê Anh Tông, tên gọi Chúa Chổm của vua Lê Trang Tông vẫn là điều mà các sách xưa nay đều chưa giải thích thấu đáo. Nhiều người cho rằng, Chổm là tên riêng dùng thuở nhỏ, còn Chúa là tước vị, theo cách gọi của người địa phương. Nhưng những cái tên quen thuộc trong dân gian như Nghêu Sò Ốc Hến đều có nghĩa, còn “Chúa Chổm” thì không. Người ta cho rằng ngày nhỏ, ông hay để chỏm tóc trái đào, nên có tên là Chỏm, rồi thành Chổm.
Đa phần đều tin, khi Nguyễn Kim phát hiện ông đang nằm trong chợ, gối đầu trên đòn gánh, thì nghĩ đến chữ “Chẩm” (cái gối đầu) theo chữ Nho, bèn gọi là Chúa Chẩm rồi chệch thành Chúa Chổm. Tài liệu mà ông Nguyễn Văn Kinh sưu tầm từ trong gia phả dòng họ Lê Duy ở Bố Vệ cũng lý giải rất chung chung: “Bố mất sớm nên Lê Duy Bang có biệt danh là Chúa Chổm”...
Chúng tôi đi tìm thân thế Chúa Chổm theo hướng khác, bắt đầu từ việc tìm về quê hương của các vua Lê. Ở huyện Thọ Xuân, nơi được coi là nơi phát tích của nhà Hậu Lê, có lẽ không còn dòng dõi của nhà vua sinh sống nữa. Bởi nếu còn thì sau loạn nhà Mạc, các bề tôi trung thành của nhà Lê không quá tốn nhiều công lao tìm kiếm người nối ngôi. Vì vậy, chúng tôi quyết định tìm về nơi Nguyễn Kim tôn lập Lê Duy Ninh lên ngôi, hy vọng bí ẩn được giải mã.
Nơi đó ở đâu, thì các sách sử đều chép khá chung chung. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú chép: “Nguyễn Kim tìm thấy Lê Duy Ninh ở vùng thượng du Thanh Hóa, đón sang Ai Lao lập làm vua”, mà không ghi địa danh cụ thể. Gần đây có người mạnh bạo khẳng định rằng đó là huyện Lang Chánh (có lẽ vì vua Lê Chiêu Tông trước đó từng đến vùng này, nên con vua ở đây chăng?), nhưng vẫn chỉ là phỏng đoán, không có căn cứ.
Xưa nay người Mường, người Kinh quen gọi người Ai Lao (Lào) và người Thái là một, nên đất Ai Lao mà Nguyễn Kim lập vua có thể là miền đất cư trú của người Thái ở Thanh - Nghệ và Tây Bắc nước ta hiện nay. Chỉ riêng miền núi Thanh Hóa cũng có đến 11 huyện, rộng gần 8.000 km2, trùng trùng núi cao sông lớn, biết đến đâu mà tìm nếu không có địa danh cụ thể?
Một gợi ý khác, dòng dõi của vua Lê Lợi lâu nay vẫn được coi là người Mường, mẹ của vua Lê Trang Tông là hoàng hậu Phạm Thị Ngọc Quỳnh, người Mường ở huyện Ngọc Lặc, thì tên gọi “Chúa Chổm” trong tiếng Mường có ý nghĩa gì chăng? Chúng tôi đến hỏi thăm một số nơi có nhiều người Mường sinh sống như Cẩm Thủy, Ngọc Lặc…, nhưng mọi người đều lắc đầu. Thời đó, miền này còn có các cư dân Thái, Khơ Mú nhưng hậu nhân của họ đều không có câu trả lời thỏa đáng về biệt danh “Chúa Chổm”.
Thật tình cờ, trong một lần tiếp xúc với ông Hà Nam Ninh tại căn nhà sàn bên bờ sông Mã, bức màn được hé mở. Ông Hà Nam Ninh nguyên là Phó Chủ tịch UBND huyện Bá Thước, hiện làm công tác khuyến học ở địa phương, rất ham mê sưu tầm và nghiên cứu văn hóa các dân tộc sinh sống trên mảnh đất của mình. Nghe hỏi chuyện Chúa Chổm, ông bật cười: “Chúa Chổm thì cả tiếng Kinh, tiếng Thái, tiếng Mường, tiếng Khơ Mú… đều không có nghĩa gì. Nhưng hoàn toàn có thể cắt nghĩa được vì sao lại gọi vua Lê Trang Tông là Chúa Chổm. Mà có lẽ cũng chỉ ở vùng Mường Khoòng của Bá Thước này mới có thể giải thích được điều đó thôi”.
Rồi ông mở tủ, lấy ra một số cuốn sách chữ Thái cổ giấy ố vàng chi chít các ký tự loằng ngoằng và những hình vẽ lạ mắt. Cuốn sách này ông sưu tầm được trong nhà con cháu nhiều đời của ông quan bản Dôộc Hà Văn Yên tại Mường Khoòng xưa (xã Lũng Cao, thuộc Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông hiện nay).
Theo ông, những cuốn sách như một pho sử viết về những thủ lĩnh người Mường, người Thái và cư dân từ xưa trên đất này. Trong đó, ghi chép rất nhiều về ông tạo Mường Khoòng Hà Nhân Chính và ông quan bản Dôộc, là những nhân vật có ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh nhà Hậu Lê, cụ thể là vua Lê Trang Tông, người mở đầu thời Lê Trung hưng kéo bậc nhất lịch sử phong kiến Việt Nam.
Theo đó, ông Hà Văn Yên là người có uy tín, được dân bản tôn làm quan bản Dôộc (tên một loài vượn lông đen đuôi dài có nhiều ở vùng này). Bản Dôộc toàn người Mường nhưng là bản nhỏ bé nên thuộc vào đất Mường Khoòng của người Thái. Bốn bề núi đá cao vây bọc, khá hẻo lánh, nhưng lại có đồng ruộng tương đối phì nhiêu nên cuộc sống ở bản Dôộc rất êm ấm. Ông quan Dôộc vốn chịu khó, hiền lành, hào phóng, hay thương người nên rất được dân bản yêu quý.
Một hôm, quan Dôộc đang đi cày thì có người đàn bà bụng chửa từ xa đến xin nương nhờ vì gia đình bị kẻ gian hãm hại khiến nhà tan cửa nát, người thân đã chết hết: “Chút máu mủ còn lại trong bụng cũng đang bị kẻ thù truy sát”. Quan Dôộc thấy người đàn bà chửa có dáng vẻ đoan trang, quý phái, nên dù chưa rõ thực hư câu chuyện ra sao vẫn vui lòng giúp đỡ. Ông đưa người đàn bà đến một hang lớn kín đáo trong vùng để giấu, sai người nhà nuôi nấng, chăm sóc, chờ ngày sinh nở.
Biết tiếng ông Quốc công (có lẽ là Lỵ Quốc công Trịnh Duy Thuân, hậu duệ của Khai quốc công thần nhà Hậu Lê là Trịnh Khắc Phục - PV) là một quan lớn miền xuôi rất hiểu biết đang mộ binh, tụ nghĩa trong vùng, ông bèn tìm đến để hỏi chuyện. Quốc công nói: “Dưới kinh thành vừa có loạn lớn, gian thần lộng quyền, lòng người không thuận. Gần đây, ta xem thiên văn, thấy sao Thái vương chiếu sáng vùng Mường Khoòng, lẽ nào là điềm lành rằng nơi này sắp có thiên tử? Ngươi nên chăm sóc người đó cẩn thận, nếu linh ứng thì đúng là hồng phúc của nước nhà. Người thường thì chửa thường, còn trứng rồng thì phải đủ 12 tháng mới nở. Lúc sinh thì vào ban ngày, trời quang mây tạnh”.
Quả nhiên, người đàn bà mang thai đủ 12 tháng thì trở dạ, nhưng đau suốt từ sáng đến xẩm tối mà vẫn chưa sinh con. Quốc công bèn cùng quan Dôộc soạn một mâm lễ cầu cúng trời đất. Trời bỗng sáng sủa trở lại, rồi một cậu bé khôi ngô chào đời, chính là vua Lê Trang Tông sau này.
Ông Hà Nam Ninh cho biết thêm: “Quan Dôộc lại tiếp tục nuôi giấu mẹ con đứa trẻ suốt nhiều năm nữa trong hang đá. Năm 1533, khi cậu bé đã lớn khôn, được quan Tày Ngự (Nguyễn Kim) cùng các đại thần nhà Lê đến đón đi làm vua thì mọi người mới biết về thân thế của cậu. Do được nuôi giấu trong hang suốt nhiều năm, nên mọi người gọi cậu là Chù Chốm (nghĩa là Giấu Trộm), sang tiếng Kinh thì chệch thành Chúa Chổm. Bản Dôộc nằm trong vùng giao thoa văn hóa của người Thái và người Mường Bi (mường ngoài), nên cách phát âm hơi khác. Theo tiếng Mường trong (Thanh Hóa), “giấu trộm” phát âm là “Chù Nôm” nên người Mường ở Cẩm Thủy, Ngọc Lặc không giải thích được nguồn gốc tên gọi Chúa Chổm cũng dễ hiểu”.
“Món nợ” lưu truyền nhiều thế kỷ
Có vua Lê Trang Tông để chính danh nêu cao ngọn cờ “phù Lê diệt Mạc”, lực lượng khởi nghĩa do Nguyễn Kim lãnh đạo ngày càng lớn mạnh, đông nhất là người Mường, Thái, Kinh ở miền thượng du của các tỉnh Thanh Nghệ và Tây Bắc. Sự nghiệp trung hưng nhà Lê có những thành công nhất định, triều đình bèn ban thưởng công lao cho các trung thần, tướng sỹ và các tù trưởng đã giúp rập nhà vua thuở hàn vi. Nơi triều đình tổ chức lễ ban công, hiện nay là xã Ban Công (huyện Bá Thước).
Công đầu được dành cho Mường Khoòng vì đã nuôi giấu nhà vua, tìm được ấn vàng và giúp đỡ quân lương rất nhiều trong buổi đầu triều đình còn trứng nước. Công thứ hai là cho Mường Xang (huyện Mộc Châu, Sơn La), đã liên kết với các bộ lạc Ai Lao đem quân đẩy lùi nhiều cuộc tấn công của quân nhà Mạc. Công thứ ba cho Mường Hạ, rồi đến Mường Thàng (thuộc Mai Châu và Cao Sơn của Hòa Bình)... Mường Khoòng sau này được gọi là xã Quốc Thành, lấy ý từ lời vua Lê Trang Tông rằng “thành quốc, thành nước là từ mảnh đất này”.
Vua Lê phong Nguyễn Kim tước Thượng phụ Thái sư Hưng Quốc công, thay vua xử lý mọi công việc lớn nhỏ của triều đình. Ông Mường Khoòng Hà Nhân Chính được phong chức Tư đồ, tước Thụy Sơn hầu, sau thăng lên Thụy quận công. Con trai nối chức cha là Lân quận công Hà Thọ Lộc cũng là một danh tướng có rất nhiều công lao phò Lê diệt Mạc, được phong chức Tư mã rồi Thiếu úy, khi mất được truy phong lên Thái úy.
Riêng ông quan bản Dôộc Hà Văn Yên được vua Lê Trang Tông gọi là bố nuôi, rất mực yêu quý, kính trọng. Vốn quen sống thanh đạm, ông Hà Văn Yên nhường hết của cải công lao tước vị cho mọi người, tiếp tục cuộc sống an nhàn nơi bản Dôộc nắng ít lạnh nhiều, bốn bề rừng núi của mình. Nơi đó vẫn còn chiếc hang mẹ con Chúa Chổm được quan bản Dôộc nuôi giấu, hiện nay là một điểm du lịch cộng đồng rất hấp dẫn của đại ngàn Pù Luông. Nguồn suối nơi quan Dôộc giúp triều đình tìm ấn vàng truyền quốc để nhà vua chính thức lên ngôi, hiện vẫn được người dân địa phương hương khói.
Vẫn theo sử sách của người Thái mà ông Hà Nam Ninh sưu tầm tại dòng tộc nhà ông quan Dôộc, vào khoảng năm thứ tám thời vua Lê Trang Tông (1541), ông tạo Mường Ánh (nay thuộc huyện Quan Hóa) là Phạm Bá Tiến bị mối hàm oan lớn. Nguyên do là con voi của nhà vua trên đường đánh giặc phải chở quá nặng, leo qua dốc Chạng Háy đã khó nhọc đến chảy nước mắt, mà quản tượng vẫn thúc đi. Đến dốc Kéo Đó thì voi già kiệt sức, ngã xuống vực mà chết. Voi bị chết trên đất Mường Ánh, nên viên quản tượng mượn cớ vu họa cho ông tạo mường này đi săn rồi bắn chết voi của nhà vua.
Dân Mường Ánh bị phạt vạ, phải đền một con voi to như voi thật, thân bằng đồng, vòi bằng bạc, ngà bằng vàng. Lấy tre nứa đan hình nộm voi, đem hết của cải trong mường ra để phủ lên, nhưng chiếc ngà voi bằng vàng thì cả mường không thể kham nổi. Ông tạo Mường Ánh bèn chạy sang cầu cứu tạo Mường Khoòng, thì được khuyên: “Chỉ có quan Dôộc là bố nuôi nhà vua, may ra cứu nổi”.
Quan Dôộc vui vẻ nhận lời, dặn ông tạo Mường Ánh kiếm ngay một con hon, một đôi sóc, hai cái hoa chuối rừng, hai bó gừng, hai gói tỏi để mang đi theo ông đến gặp vua. Hai ngày sau, quan Dôộc thắt dao nắp chống gậy đi trước, tạo Mường Ánh gánh quà lỉnh kỉnh theo sau cùng đến hành điện của vua ở Yên Trường - Vạn Lại (huyện Thọ Xuân ngày nay). Quân lính chẳng biết mấy người này là ai, bèn ngăn cản không cho vào. Quan Dôộc bèn đứng bên ngoài gọi to: “Chổm ơi, bố ra thăm mày đây! Chổm ơi”.
Nghe có người réo gọi tên thuở nhỏ của nhà vua, đám quân lính ùa ra bắt lại. Quan Dôộc bảo: “Bắt thì cứ bắt, nhưng phải đem quà của ta vào cho Chổm đi, kẻo để lâu hỏng hết”. Quân lính đem quà vào, nhà vua nhận ra ngay bố nuôi mình, bèn chạy ra ngoài đón rước vào. Vua nghe bố kể chuyện, bèn minh oan cho tạo Mường Ánh, rồi tặng hai người rất nhiều quà, đưa trở về quê cũ.
Nhớ ơn quan Dôộc, ông Phạm Bá Tiến đem biếu tặng rất nhiều của cải, nhưng quan Dôộc chỉ nhận một rẻo đất giáp với sông Mã. Đất ấy do quan Dôộc kén chọn nên gọi là bản Kén, và quan Dôộc từ đó còn được gọi là quan Kén. Chuyện này ghi trong sách, có các quan tạo mường, tạo bản lân cận đều đặt tay in dấu lên văn bản làm bằng.
Có lẽ nào, câu chuyện ông quan bản Dôộc lếch thếch từ trên thượng du về xuôi, đứng ngoài dinh gào réo gọi tên vua, khi về lại mang theo nhiều quà cáp, mà sau này bị tam sao thất bản mà thành chuyện các con nợ kéo về tận kinh thành đòi nợ Chúa Chổm chăng?
Sách cổ của người Thái còn kể thêm sự việc nữa xảy ra ở Mường Khoòng khiến quan Dôộc một lần nữa lại phải tới hành dinh của nhà vua. Chẳng là ông tạo Mường Khoòng Hà Thọ Lộc (thế tập chức của cha) phạm tội khi quân, bị bắt nhốt trong ngục chờ xử chém. Lúc này quan Kén đã già và Chúa Chổm Lê Trang Tông, Thái sư Nguyễn Kim đều đã mất. Vua mới không nhớ chuyện cũ của Chúa Chổm với quan Dôộc và tạo Mường Khoòng. Ông quan Dôộc sai con trai thứ ba của tạo mường đem hết những tờ ghi công trạng hạng nhất mà triều đình ban cho Mường Khoòng dâng lên vua. Nhà vua liền tha tội cho Hà Thọ Lộc, đồng thời ban thưởng thêm “52 khiêng (gánh) của cải” để mang về Mường Khoòng. Thái úy Hà Thọ Lộc thoát đại nạn liền sai con cháu lập lời thề ghi nhớ công ơn quan Dôộc, miễn mọi loại cống lễ phục dịch cho dân bản Dôộc, bản Kén. Các con của ông Thái úy đều đặt tay điểm chỉ vào văn tự ấy làm bằng.
Trong quá trình điền dã thu thập tư liệu, được tiếp xúc với nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu văn hóa và người dân địa phương, chúng tôi có nhận định khác về món nợ của Chúa Chổm. Chuyện của quan Dôộc Hà Văn Yên, các tạo Mường Khoòng là Quận công Hà Nhân Chính, Hà Thọ Lộc… liên quan đến nhà vua Lê Trang Tông đều được ghi chép lại trong sách cổ chữ Thái, được người địa phương truyền tụng, tin tưởng. Tuy nhiên, bên cạnh một số chi tiết mang yếu tố huyền bí được hư cấu, thì tính xác thực của các sử liệu này vẫn cần thời gian nghiên cứu, thẩm định một cách nghiêm túc, cẩn thận.
Nhưng rõ ràng, món nợ ân tình của Chúa Chổm đối với các trung thần nhà Lê như Nguyễn Kim, Trịnh Duy Thuân, Trịnh Duy Liêu, Trịnh Kiểm… cùng nhân dân vùng thượng du người Mường, người Thái là rất lớn lao, không dễ gì trả hết bằng bổng lộc, tiền bạc được. Rất nhiều người có công đã được phong chức tước, nhiều mường được vinh hiển, nhưng vẫn là chưa đủ. Người hậu duệ của dòng tộc vua Lê hiển hách vẫn chịu ơn sâu đối với các tướng lĩnh trung thành và hàng vạn người dân đã theo mình trong sự nghiệp trung hưng một triều đại tưởng đã sụp đổ. Món nợ này cao cả hơn rất nhiều lần so với những món nợ xôi thịt, cờ bạc tầm thường mà Chúa Chổm bị hàm oan suốt nhiều thế kỷ nay?
Lê Quân
Kỳ 2 (kỳ cuối): Nguồn gốc biệt danh Chúa Chổm
Rất nhiều ý kiến khác của các học giả và nhân dân cả nước cho rằng Chúa Chổm chính là vua Lê Trang Tông (húy là Lê Ninh hoặc Lê Duy Ninh, ở ngôi từ năm 1533 – 1548), người được Thái sư Nguyễn Kim phò lập tại miền thượng du xứ Thanh. Tuy lên ngôi trước và lớn tuổi hơn, nhưng trong vai vế dòng tộc, Lê Duy Ninh thuộc hàng cháu, gọi Lê Duy Bang bằng bác.
Cũng như với vua Lê Anh Tông, tên gọi Chúa Chổm của vua Lê Trang Tông vẫn là điều mà các sách xưa nay đều chưa giải thích thấu đáo. Nhiều người cho rằng, Chổm là tên riêng dùng thuở nhỏ, còn Chúa là tước vị, theo cách gọi của người địa phương. Nhưng những cái tên quen thuộc trong dân gian như Nghêu Sò Ốc Hến đều có nghĩa, còn “Chúa Chổm” thì không. Người ta cho rằng ngày nhỏ, ông hay để chỏm tóc trái đào, nên có tên là Chỏm, rồi thành Chổm.
Đa phần đều tin, khi Nguyễn Kim phát hiện ông đang nằm trong chợ, gối đầu trên đòn gánh, thì nghĩ đến chữ “Chẩm” (cái gối đầu) theo chữ Nho, bèn gọi là Chúa Chẩm rồi chệch thành Chúa Chổm. Tài liệu mà ông Nguyễn Văn Kinh sưu tầm từ trong gia phả dòng họ Lê Duy ở Bố Vệ cũng lý giải rất chung chung: “Bố mất sớm nên Lê Duy Bang có biệt danh là Chúa Chổm”...
Chúng tôi đi tìm thân thế Chúa Chổm theo hướng khác, bắt đầu từ việc tìm về quê hương của các vua Lê. Ở huyện Thọ Xuân, nơi được coi là nơi phát tích của nhà Hậu Lê, có lẽ không còn dòng dõi của nhà vua sinh sống nữa. Bởi nếu còn thì sau loạn nhà Mạc, các bề tôi trung thành của nhà Lê không quá tốn nhiều công lao tìm kiếm người nối ngôi. Vì vậy, chúng tôi quyết định tìm về nơi Nguyễn Kim tôn lập Lê Duy Ninh lên ngôi, hy vọng bí ẩn được giải mã.
Một trang sách Thái cổ, viết về chuyện liên quan tới Chúa Chổm |
Nơi đó ở đâu, thì các sách sử đều chép khá chung chung. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú chép: “Nguyễn Kim tìm thấy Lê Duy Ninh ở vùng thượng du Thanh Hóa, đón sang Ai Lao lập làm vua”, mà không ghi địa danh cụ thể. Gần đây có người mạnh bạo khẳng định rằng đó là huyện Lang Chánh (có lẽ vì vua Lê Chiêu Tông trước đó từng đến vùng này, nên con vua ở đây chăng?), nhưng vẫn chỉ là phỏng đoán, không có căn cứ.
Xưa nay người Mường, người Kinh quen gọi người Ai Lao (Lào) và người Thái là một, nên đất Ai Lao mà Nguyễn Kim lập vua có thể là miền đất cư trú của người Thái ở Thanh - Nghệ và Tây Bắc nước ta hiện nay. Chỉ riêng miền núi Thanh Hóa cũng có đến 11 huyện, rộng gần 8.000 km2, trùng trùng núi cao sông lớn, biết đến đâu mà tìm nếu không có địa danh cụ thể?
Một gợi ý khác, dòng dõi của vua Lê Lợi lâu nay vẫn được coi là người Mường, mẹ của vua Lê Trang Tông là hoàng hậu Phạm Thị Ngọc Quỳnh, người Mường ở huyện Ngọc Lặc, thì tên gọi “Chúa Chổm” trong tiếng Mường có ý nghĩa gì chăng? Chúng tôi đến hỏi thăm một số nơi có nhiều người Mường sinh sống như Cẩm Thủy, Ngọc Lặc…, nhưng mọi người đều lắc đầu. Thời đó, miền này còn có các cư dân Thái, Khơ Mú nhưng hậu nhân của họ đều không có câu trả lời thỏa đáng về biệt danh “Chúa Chổm”.
Thật tình cờ, trong một lần tiếp xúc với ông Hà Nam Ninh tại căn nhà sàn bên bờ sông Mã, bức màn được hé mở. Ông Hà Nam Ninh nguyên là Phó Chủ tịch UBND huyện Bá Thước, hiện làm công tác khuyến học ở địa phương, rất ham mê sưu tầm và nghiên cứu văn hóa các dân tộc sinh sống trên mảnh đất của mình. Nghe hỏi chuyện Chúa Chổm, ông bật cười: “Chúa Chổm thì cả tiếng Kinh, tiếng Thái, tiếng Mường, tiếng Khơ Mú… đều không có nghĩa gì. Nhưng hoàn toàn có thể cắt nghĩa được vì sao lại gọi vua Lê Trang Tông là Chúa Chổm. Mà có lẽ cũng chỉ ở vùng Mường Khoòng của Bá Thước này mới có thể giải thích được điều đó thôi”.
Hai nhà nghiên cứu văn hóa Phan Bảo và Hà Nam Ninh trong chuyến điền dã tìm dấu tích nhà Lê Trung hưng |
Rồi ông mở tủ, lấy ra một số cuốn sách chữ Thái cổ giấy ố vàng chi chít các ký tự loằng ngoằng và những hình vẽ lạ mắt. Cuốn sách này ông sưu tầm được trong nhà con cháu nhiều đời của ông quan bản Dôộc Hà Văn Yên tại Mường Khoòng xưa (xã Lũng Cao, thuộc Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông hiện nay).
Theo ông, những cuốn sách như một pho sử viết về những thủ lĩnh người Mường, người Thái và cư dân từ xưa trên đất này. Trong đó, ghi chép rất nhiều về ông tạo Mường Khoòng Hà Nhân Chính và ông quan bản Dôộc, là những nhân vật có ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh nhà Hậu Lê, cụ thể là vua Lê Trang Tông, người mở đầu thời Lê Trung hưng kéo bậc nhất lịch sử phong kiến Việt Nam.
Theo đó, ông Hà Văn Yên là người có uy tín, được dân bản tôn làm quan bản Dôộc (tên một loài vượn lông đen đuôi dài có nhiều ở vùng này). Bản Dôộc toàn người Mường nhưng là bản nhỏ bé nên thuộc vào đất Mường Khoòng của người Thái. Bốn bề núi đá cao vây bọc, khá hẻo lánh, nhưng lại có đồng ruộng tương đối phì nhiêu nên cuộc sống ở bản Dôộc rất êm ấm. Ông quan Dôộc vốn chịu khó, hiền lành, hào phóng, hay thương người nên rất được dân bản yêu quý.
Một hôm, quan Dôộc đang đi cày thì có người đàn bà bụng chửa từ xa đến xin nương nhờ vì gia đình bị kẻ gian hãm hại khiến nhà tan cửa nát, người thân đã chết hết: “Chút máu mủ còn lại trong bụng cũng đang bị kẻ thù truy sát”. Quan Dôộc thấy người đàn bà chửa có dáng vẻ đoan trang, quý phái, nên dù chưa rõ thực hư câu chuyện ra sao vẫn vui lòng giúp đỡ. Ông đưa người đàn bà đến một hang lớn kín đáo trong vùng để giấu, sai người nhà nuôi nấng, chăm sóc, chờ ngày sinh nở.
Biết tiếng ông Quốc công (có lẽ là Lỵ Quốc công Trịnh Duy Thuân, hậu duệ của Khai quốc công thần nhà Hậu Lê là Trịnh Khắc Phục - PV) là một quan lớn miền xuôi rất hiểu biết đang mộ binh, tụ nghĩa trong vùng, ông bèn tìm đến để hỏi chuyện. Quốc công nói: “Dưới kinh thành vừa có loạn lớn, gian thần lộng quyền, lòng người không thuận. Gần đây, ta xem thiên văn, thấy sao Thái vương chiếu sáng vùng Mường Khoòng, lẽ nào là điềm lành rằng nơi này sắp có thiên tử? Ngươi nên chăm sóc người đó cẩn thận, nếu linh ứng thì đúng là hồng phúc của nước nhà. Người thường thì chửa thường, còn trứng rồng thì phải đủ 12 tháng mới nở. Lúc sinh thì vào ban ngày, trời quang mây tạnh”.
Quả nhiên, người đàn bà mang thai đủ 12 tháng thì trở dạ, nhưng đau suốt từ sáng đến xẩm tối mà vẫn chưa sinh con. Quốc công bèn cùng quan Dôộc soạn một mâm lễ cầu cúng trời đất. Trời bỗng sáng sủa trở lại, rồi một cậu bé khôi ngô chào đời, chính là vua Lê Trang Tông sau này.
Đất Mường Khoòng ngày nay, nơi được cho là khởi phát của nhà Lê Trung hưng |
Ông Hà Nam Ninh cho biết thêm: “Quan Dôộc lại tiếp tục nuôi giấu mẹ con đứa trẻ suốt nhiều năm nữa trong hang đá. Năm 1533, khi cậu bé đã lớn khôn, được quan Tày Ngự (Nguyễn Kim) cùng các đại thần nhà Lê đến đón đi làm vua thì mọi người mới biết về thân thế của cậu. Do được nuôi giấu trong hang suốt nhiều năm, nên mọi người gọi cậu là Chù Chốm (nghĩa là Giấu Trộm), sang tiếng Kinh thì chệch thành Chúa Chổm. Bản Dôộc nằm trong vùng giao thoa văn hóa của người Thái và người Mường Bi (mường ngoài), nên cách phát âm hơi khác. Theo tiếng Mường trong (Thanh Hóa), “giấu trộm” phát âm là “Chù Nôm” nên người Mường ở Cẩm Thủy, Ngọc Lặc không giải thích được nguồn gốc tên gọi Chúa Chổm cũng dễ hiểu”.
“Món nợ” lưu truyền nhiều thế kỷ
Có vua Lê Trang Tông để chính danh nêu cao ngọn cờ “phù Lê diệt Mạc”, lực lượng khởi nghĩa do Nguyễn Kim lãnh đạo ngày càng lớn mạnh, đông nhất là người Mường, Thái, Kinh ở miền thượng du của các tỉnh Thanh Nghệ và Tây Bắc. Sự nghiệp trung hưng nhà Lê có những thành công nhất định, triều đình bèn ban thưởng công lao cho các trung thần, tướng sỹ và các tù trưởng đã giúp rập nhà vua thuở hàn vi. Nơi triều đình tổ chức lễ ban công, hiện nay là xã Ban Công (huyện Bá Thước).
Công đầu được dành cho Mường Khoòng vì đã nuôi giấu nhà vua, tìm được ấn vàng và giúp đỡ quân lương rất nhiều trong buổi đầu triều đình còn trứng nước. Công thứ hai là cho Mường Xang (huyện Mộc Châu, Sơn La), đã liên kết với các bộ lạc Ai Lao đem quân đẩy lùi nhiều cuộc tấn công của quân nhà Mạc. Công thứ ba cho Mường Hạ, rồi đến Mường Thàng (thuộc Mai Châu và Cao Sơn của Hòa Bình)... Mường Khoòng sau này được gọi là xã Quốc Thành, lấy ý từ lời vua Lê Trang Tông rằng “thành quốc, thành nước là từ mảnh đất này”.
Vua Lê phong Nguyễn Kim tước Thượng phụ Thái sư Hưng Quốc công, thay vua xử lý mọi công việc lớn nhỏ của triều đình. Ông Mường Khoòng Hà Nhân Chính được phong chức Tư đồ, tước Thụy Sơn hầu, sau thăng lên Thụy quận công. Con trai nối chức cha là Lân quận công Hà Thọ Lộc cũng là một danh tướng có rất nhiều công lao phò Lê diệt Mạc, được phong chức Tư mã rồi Thiếu úy, khi mất được truy phong lên Thái úy.
Riêng ông quan bản Dôộc Hà Văn Yên được vua Lê Trang Tông gọi là bố nuôi, rất mực yêu quý, kính trọng. Vốn quen sống thanh đạm, ông Hà Văn Yên nhường hết của cải công lao tước vị cho mọi người, tiếp tục cuộc sống an nhàn nơi bản Dôộc nắng ít lạnh nhiều, bốn bề rừng núi của mình. Nơi đó vẫn còn chiếc hang mẹ con Chúa Chổm được quan bản Dôộc nuôi giấu, hiện nay là một điểm du lịch cộng đồng rất hấp dẫn của đại ngàn Pù Luông. Nguồn suối nơi quan Dôộc giúp triều đình tìm ấn vàng truyền quốc để nhà vua chính thức lên ngôi, hiện vẫn được người dân địa phương hương khói.
Vẫn theo sử sách của người Thái mà ông Hà Nam Ninh sưu tầm tại dòng tộc nhà ông quan Dôộc, vào khoảng năm thứ tám thời vua Lê Trang Tông (1541), ông tạo Mường Ánh (nay thuộc huyện Quan Hóa) là Phạm Bá Tiến bị mối hàm oan lớn. Nguyên do là con voi của nhà vua trên đường đánh giặc phải chở quá nặng, leo qua dốc Chạng Háy đã khó nhọc đến chảy nước mắt, mà quản tượng vẫn thúc đi. Đến dốc Kéo Đó thì voi già kiệt sức, ngã xuống vực mà chết. Voi bị chết trên đất Mường Ánh, nên viên quản tượng mượn cớ vu họa cho ông tạo mường này đi săn rồi bắn chết voi của nhà vua.
Đất Mường Khoòng ngày nay, nơi được cho là khởi phát của nhà Lê Trung hưng |
Dân Mường Ánh bị phạt vạ, phải đền một con voi to như voi thật, thân bằng đồng, vòi bằng bạc, ngà bằng vàng. Lấy tre nứa đan hình nộm voi, đem hết của cải trong mường ra để phủ lên, nhưng chiếc ngà voi bằng vàng thì cả mường không thể kham nổi. Ông tạo Mường Ánh bèn chạy sang cầu cứu tạo Mường Khoòng, thì được khuyên: “Chỉ có quan Dôộc là bố nuôi nhà vua, may ra cứu nổi”.
Quan Dôộc vui vẻ nhận lời, dặn ông tạo Mường Ánh kiếm ngay một con hon, một đôi sóc, hai cái hoa chuối rừng, hai bó gừng, hai gói tỏi để mang đi theo ông đến gặp vua. Hai ngày sau, quan Dôộc thắt dao nắp chống gậy đi trước, tạo Mường Ánh gánh quà lỉnh kỉnh theo sau cùng đến hành điện của vua ở Yên Trường - Vạn Lại (huyện Thọ Xuân ngày nay). Quân lính chẳng biết mấy người này là ai, bèn ngăn cản không cho vào. Quan Dôộc bèn đứng bên ngoài gọi to: “Chổm ơi, bố ra thăm mày đây! Chổm ơi”.
Nghe có người réo gọi tên thuở nhỏ của nhà vua, đám quân lính ùa ra bắt lại. Quan Dôộc bảo: “Bắt thì cứ bắt, nhưng phải đem quà của ta vào cho Chổm đi, kẻo để lâu hỏng hết”. Quân lính đem quà vào, nhà vua nhận ra ngay bố nuôi mình, bèn chạy ra ngoài đón rước vào. Vua nghe bố kể chuyện, bèn minh oan cho tạo Mường Ánh, rồi tặng hai người rất nhiều quà, đưa trở về quê cũ.
Nhớ ơn quan Dôộc, ông Phạm Bá Tiến đem biếu tặng rất nhiều của cải, nhưng quan Dôộc chỉ nhận một rẻo đất giáp với sông Mã. Đất ấy do quan Dôộc kén chọn nên gọi là bản Kén, và quan Dôộc từ đó còn được gọi là quan Kén. Chuyện này ghi trong sách, có các quan tạo mường, tạo bản lân cận đều đặt tay in dấu lên văn bản làm bằng.
Có lẽ nào, câu chuyện ông quan bản Dôộc lếch thếch từ trên thượng du về xuôi, đứng ngoài dinh gào réo gọi tên vua, khi về lại mang theo nhiều quà cáp, mà sau này bị tam sao thất bản mà thành chuyện các con nợ kéo về tận kinh thành đòi nợ Chúa Chổm chăng?
Sách cổ của người Thái còn kể thêm sự việc nữa xảy ra ở Mường Khoòng khiến quan Dôộc một lần nữa lại phải tới hành dinh của nhà vua. Chẳng là ông tạo Mường Khoòng Hà Thọ Lộc (thế tập chức của cha) phạm tội khi quân, bị bắt nhốt trong ngục chờ xử chém. Lúc này quan Kén đã già và Chúa Chổm Lê Trang Tông, Thái sư Nguyễn Kim đều đã mất. Vua mới không nhớ chuyện cũ của Chúa Chổm với quan Dôộc và tạo Mường Khoòng. Ông quan Dôộc sai con trai thứ ba của tạo mường đem hết những tờ ghi công trạng hạng nhất mà triều đình ban cho Mường Khoòng dâng lên vua. Nhà vua liền tha tội cho Hà Thọ Lộc, đồng thời ban thưởng thêm “52 khiêng (gánh) của cải” để mang về Mường Khoòng. Thái úy Hà Thọ Lộc thoát đại nạn liền sai con cháu lập lời thề ghi nhớ công ơn quan Dôộc, miễn mọi loại cống lễ phục dịch cho dân bản Dôộc, bản Kén. Các con của ông Thái úy đều đặt tay điểm chỉ vào văn tự ấy làm bằng.
Ông Hà Nam Ninh với cuốn sách chữ Thái Mường Khoòng cổ |
Trong quá trình điền dã thu thập tư liệu, được tiếp xúc với nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu văn hóa và người dân địa phương, chúng tôi có nhận định khác về món nợ của Chúa Chổm. Chuyện của quan Dôộc Hà Văn Yên, các tạo Mường Khoòng là Quận công Hà Nhân Chính, Hà Thọ Lộc… liên quan đến nhà vua Lê Trang Tông đều được ghi chép lại trong sách cổ chữ Thái, được người địa phương truyền tụng, tin tưởng. Tuy nhiên, bên cạnh một số chi tiết mang yếu tố huyền bí được hư cấu, thì tính xác thực của các sử liệu này vẫn cần thời gian nghiên cứu, thẩm định một cách nghiêm túc, cẩn thận.
Nhưng rõ ràng, món nợ ân tình của Chúa Chổm đối với các trung thần nhà Lê như Nguyễn Kim, Trịnh Duy Thuân, Trịnh Duy Liêu, Trịnh Kiểm… cùng nhân dân vùng thượng du người Mường, người Thái là rất lớn lao, không dễ gì trả hết bằng bổng lộc, tiền bạc được. Rất nhiều người có công đã được phong chức tước, nhiều mường được vinh hiển, nhưng vẫn là chưa đủ. Người hậu duệ của dòng tộc vua Lê hiển hách vẫn chịu ơn sâu đối với các tướng lĩnh trung thành và hàng vạn người dân đã theo mình trong sự nghiệp trung hưng một triều đại tưởng đã sụp đổ. Món nợ này cao cả hơn rất nhiều lần so với những món nợ xôi thịt, cờ bạc tầm thường mà Chúa Chổm bị hàm oan suốt nhiều thế kỷ nay?
Lê Quân
Bình luận