Phương tiện chiến đấu chiến lược này đã đặt nền móng cho sự phát triển của loại phương tiện hàng không hàng đầu thế giới. Nó dần chứng tỏ vai trò quan trọng hàng đầu, không chỉ là máy bay ném bom mà còn là phương tiện vận tải hàng hóa đắc lực.
Năm 1925, một cơ quan của Viện Khí động học Trung ương (TsAGI) của Liên Xô đã chế tạo ra máy bay ANT-4 (hay TB-1). Đây là loại máy bay ném bom hoàn toàn bằng kim loại đầu tiên trên thế giới, có cánh đơn đúc hẫng. Sau đó, Cục Kỹ thuật Đặc biệt cùng với TsAGI bắt đầu phát triển máy bay ANT-6 (đặt tên là TB-3).
Dự án này do nhà thiết kế máy bay nổi tiếng Andrey Tupolev phụ trách. Năm 1926, dự án bắt đầu thực hiện và dần hoàn thành vào năm 1929. Các nhà chế tạo Liên Xô đã tạo ra một máy bay khổng lồ, sẵn sàng thực hiện đa nhiệm vụ. Đây là chiếc máy bay ném bom 4 động cơ đầu tiên trên thế giới, với các động cơ được lắp thành một hàng dọc theo sải cánh.
Nguyên mẫu đầu tiên của máy bay bắt đầu được chế tạo, sau khi được phê duyệt chính thức vào tháng 3/1930. Đến cuối tháng 10/1930, chiếc máy bay TB-3 được lắp ráp xong. Nó được trang bị 4 động cơ Curtis Conqueror, với công suất 600 mã lực/động cơ.
Ban đầu, các kỹ sư đề xuất lắp động cơ máy bay BMW - VIz có công suất 730 mã lực, với tên định danh M-17. Sau đó, Liên Xô đã sử dụng các động cơ khác trong các phiên bản sửa đổi.
Ngày 22/12/1930, chuyến bay đầu tiên của chiếc máy bay TB-3 diễn ra, dưới sự điều khiển của phi công nổi tiếng Mikhail Gromov, người sau này trở thành huyền thoại trong giới phi công Liên Xô, và là người thứ 8 trong lịch sử được nhận huân chương Anh hùng Liên Xô.
Ban đầu, Liên Xô tiến hành thử nghiệm máy bay trên ván trượt, được chế tạo đặc biệt ở phiên bản nhẹ. Các tháp pháo được lắp đặt mà không có súng máy, bom không được nạp trên giá treo vũ khí. Sau chuyến bay thử nghiệm, máy bay TB-3 được đề nghị sản xuất hàng loạt.
So với nguyên mẫu, phiên bản sản xuất phải thay đổi rất nhiều. Cụ thể, vật liệu thép crom-molypden nhập khẩu đã được thay thế bằng thép cromansil sản xuất trong nước. Do đó, trọng lượng của máy bay tăng lên đáng kể. Ngoài ra, nhiều chi tiết như các nút bổ sung, tiết diện dây quá khổ, các mối hàn thô, …đã ảnh hưởng đến trọng lượng của máy bay.
Ngoài ra, các tháp pháo quay sau đó đã bị loại bỏ, một số vách ngăn trong thân máy bay được làm ra bên ngoài. Khung gầm, hệ thống treo bom và nhiều thứ khác được làm nhẹ. Kết quả là hơn 800 kg khối lượng của máy bay được cắt giảm.
Tuy nhiên, mục tiêu về cơ bản đã đạt được. Khối lượng của máy bay, với động cơ M-17 là khoảng 10.970 kg. Trọng lượng cất cánh thông thường là 17.200 kg và trọng lượng cất cánh tối đa lên tới 19.300 kg. Trong giai đoạn từ 1932 - 1937, tổng cộng 818 chiếc TB-3 được chế tạo.
TB-3 được sử dụng làm máy bay ném bom vào năm 1939, đồng thời tham gia chiến đấu trong cuộc chiến với Phần Lan. TB-3 cũng tham gia trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Đặc biệt là trong chiến dịch phòng thủ Smolensk và tham chiến tại mặt trận phía Bắc từ năm 1941-1942.
Ngoài ra, TB-3 cũng được sử dụng để vận chuyển hàng hóa và chở quân, với sức chứa 35 người. Liên Xô trở thành nước đầu tiên có lực lượng tấn công đổ bộ và nhảy dù cỡ lớn. Trong cuộc diễn tập ở Belarus năm 1935, những máy bay TB-3 đã vận chuyển hơn 5.700 lính dù.
Máy bay TB-3 đã góp phần quan trọng giúp Liên Xô đánh bại quân Phát xít Đức trên chiến trường. Tuy nhiên, không một bản sao hoàn chỉnh nào của TB-3 còn tồn tại cho đến ngày nay.
Bình luận