Khát khao được tới lớp, Phạm Thị Nguyệt và Ngân Thị Đòa đều 11 tuổi ở huyện Mường Lát, Thanh Hóa dựng lán gần trường để đi học.
Nguyệt và Đòa đều sinh ra ở bản Chiềng, bản nghèo nhất xã Trung Lý của huyện miền núi Mường Lát. Nơi đây dân thưa thớt, không đủ học sinh nên các thầy cô giáo không thể lập điểm trường.
Khát khao đi học, hai em đã rời bản, vào tận Cò Cài cách đó 5 km dựng lán ở để được đến trường. Các em ruột của Nguyệt và Đòa cũng theo chị vào lán ở, chị em cùng nuôi giấc mơ học chữ để thoát nghèo.
Vừa tan trường, Nguyệt vội trở về lán ngay. Cất chiếc cặp, em nhóm lửa nấu cơm, rồi khệ nệ bưng chậu quần áo xuống suối giặt. Cậu em trai Phạm Bá Kiên (8 tuổi) giúp chị trông nồi cơm. Căn lán nhỏ gọn gàng, không có đồ gì quý ngoài vài tấm chăn, bộ quần áo và sách vở của hai chị em.
Cô học trò 11 tuổi đã có "thâm niên" 5 năm ở lán. Bố mẹ dựng cho căn lán nhỏ khi Nguyệt bắt đầu vào lớp 1. Để em làm quen với cuộc sống tự lập, cả gia đình bàn nhau chuyển vào Cò Cài ở tạm một thời gian. Được một năm, bố mẹ về dưới Chiềng đi nương, hai chị em ở lại lán tiếp tục học.
Nguyệt kể, đêm đầu tiên ở lán, Kiên khóc vì nhớ mẹ. Nguyệt khi đó mới 7 tuổi ôm cậu em 5 tuổi dỗ em đừng khóc, rồi cuối tuần sẽ được về thăm nhà. Những đêm mùa đông lạnh thấu xương, gió núi thổi vào vách nứa ràn rạt như muốn hất tung căn lán nhỏ xuống suối, hai chị em lấy chăn che kín góc lán, ngăn gió rồi ngồi học bài.
Nguyệt cho hay, mỗi tháng bố cho 20.000 đồng tiền sinh hoạt, có khi ít hơn. Tiền bố cho, em dùng để mua bút, sách cho hai chị em. Nhắc đến người mẹ bệnh tật, Nguyệt chia sẻ, mẹ em bị bệnh nặng, không còn khả năng lao động đã nhiều năm nay.
Vì thế, cô bé luôn tự nhủ phải học thật giỏi. Từ lớp 1 đến nay, những tấm giấy khen học sinh giỏi, phần thưởng trong các kỳ thi viết chữ đẹp, Nguyệt luôn mang về khoe với mẹ đầu tiên.
Lán ở cạnh suối, ngày mưa nước suối dâng cao, hai chị em dắt nhau vừa ôm cặp, dò dẫm từng bước chân đi trên cây cầu ghép từ những cây luồng vắt ngang suối. Đến được lớp học thì cũng ướt mèm từ đầu tới chân. 5 năm đi học, cô trò nhỏ chưa nghỉ buổi nào.
Mỗi lần nghe dì đang học ĐH Y Thái Bình kể chuyện, Nguyệt lại khao khát rời bản nghèo, bước chân vào giảng đường đại học để trở thành bác sĩ nhưng cô bé cũng lo bố mẹ không có tiền đóng học cho mình.
Cách lán của chị em Nguyệt không xa là căn lán của chị em Đòa. Dưới Đòa còn hai em nhỏ đang học lớp 3 và mẫu giáo. Đòa chuyển vào Cò Cài được 2 năm, trước đó em học bên xã Mường Lý. Ngày đó, để đến được trường, học sinh phải ngồi trên bè mảng qua sông Mã.
Đến giờ, Đòa vẫn còn nhớ cảm giác lo sợ khi ngồi chênh vênh trên chiếc mảng ghép từ những cây luồng. Tay Đòa nắm chặt hai em nhỏ và không dám thở mạnh cho đến khi sang bờ bên kia. Hôm nào mưa to, nước dâng cao, bè mảng không qua sông là chị em Đòa phải nghỉ học.
Hết lớp 3, bố mẹ muốn Đòa nghỉ vì sợ đi học sẽ bị rơi xuống sông và tiền đi bè mảng còn nhiều hơn cả tiền đóng học. Nhà có bốn chị em, em gái kế sau Đòa đã phải nghỉ học ở nhà đi nương. Cô bé nước mắt ngắn dài xin bố mẹ cho mang theo hai em vào bản Cò Cài để tiếp tục đi học.
Mỗi chiều sau khi ôn bài xong, Nguyệt và Đòa thường rủ nhau đi lấy củi, hái rau rừng. Bữa cơm của các em chỉ có rau rừng chấm nước mắm, mùa măng có thêm đĩa măng luộc chấm muối, thỉnh thoảng có quả trứng, miếng thịt.
Cuối tuần được nghỉ, Nguyệt dắt Kiên, Đòa cõng em út, tay dắt em gái đi bộ 5 km mới về đến bản Chiềng. Chiều chủ nhật, năm đứa trẻ lại quay về Cò Cài để kịp đi học tuần sau.
Biết chị Đòa và chị Nguyệt học khá, mấy đứa trẻ nhà bên cạnh cũng mang sách qua lán cùng học bài. Học cùng lớp, lại chơi thân với nhau, Nguyệt và Đòa đều nằm trong top học sinh khá, giỏi của trường. 5 năm nay, Nguyệt luôn giành danh hiệu học sinh giỏi toàn diện. Trong khi đó, Đòa cũng liên tục góp mặt trong các kỳ thi học sinh giỏi. Mới đây, cả hai được đại diện cho trường đi giao lưu học sinh giỏi các trường tiểu học trên địa bàn huyện Mường Lát.
Thầy Phạm Đăng Dung, Hiệu trưởng Trường tiểu học Trung Lý 2 cho biết, Nguyệt và Đòa là hai tấm gương vượt khó tiêu biểu của nhà trường. Cả hai đều là học sinh khá, giỏi liên tục trong nhiều năm.
"Trường đã miễn mọi khoản đóng góp và khen thưởng trực tiếp khi các em đạt thành tích tốt. Ngoài giờ học, các thầy cô giáo cũng thường xuyên đến lán xem tình hình ăn ở của học trò, xin điện của nhà dân để các em có ánh sáng học bài", thầy Dung cho hay.
Theo thầy Dung, học sinh của nhà trường chủ yếu là người dân tộc Thái và Mông, có hoàn cảnh khó khăn. Các em ở bản xa nhưng rất ham học, đều có một mong muốn được đi học để thoát nghèo.
Chị em Nguyệt trong căn lán dựng gần trường. Ảnh: Hoàng Phương. |
Khát khao đi học, hai em đã rời bản, vào tận Cò Cài cách đó 5 km dựng lán ở để được đến trường. Các em ruột của Nguyệt và Đòa cũng theo chị vào lán ở, chị em cùng nuôi giấc mơ học chữ để thoát nghèo.
Vừa tan trường, Nguyệt vội trở về lán ngay. Cất chiếc cặp, em nhóm lửa nấu cơm, rồi khệ nệ bưng chậu quần áo xuống suối giặt. Cậu em trai Phạm Bá Kiên (8 tuổi) giúp chị trông nồi cơm. Căn lán nhỏ gọn gàng, không có đồ gì quý ngoài vài tấm chăn, bộ quần áo và sách vở của hai chị em.
|
Nguyệt kể, đêm đầu tiên ở lán, Kiên khóc vì nhớ mẹ. Nguyệt khi đó mới 7 tuổi ôm cậu em 5 tuổi dỗ em đừng khóc, rồi cuối tuần sẽ được về thăm nhà. Những đêm mùa đông lạnh thấu xương, gió núi thổi vào vách nứa ràn rạt như muốn hất tung căn lán nhỏ xuống suối, hai chị em lấy chăn che kín góc lán, ngăn gió rồi ngồi học bài.
Nguyệt cho hay, mỗi tháng bố cho 20.000 đồng tiền sinh hoạt, có khi ít hơn. Tiền bố cho, em dùng để mua bút, sách cho hai chị em. Nhắc đến người mẹ bệnh tật, Nguyệt chia sẻ, mẹ em bị bệnh nặng, không còn khả năng lao động đã nhiều năm nay.
Vì thế, cô bé luôn tự nhủ phải học thật giỏi. Từ lớp 1 đến nay, những tấm giấy khen học sinh giỏi, phần thưởng trong các kỳ thi viết chữ đẹp, Nguyệt luôn mang về khoe với mẹ đầu tiên.
Lán ở cạnh suối, ngày mưa nước suối dâng cao, hai chị em dắt nhau vừa ôm cặp, dò dẫm từng bước chân đi trên cây cầu ghép từ những cây luồng vắt ngang suối. Đến được lớp học thì cũng ướt mèm từ đầu tới chân. 5 năm đi học, cô trò nhỏ chưa nghỉ buổi nào.
Mỗi lần nghe dì đang học ĐH Y Thái Bình kể chuyện, Nguyệt lại khao khát rời bản nghèo, bước chân vào giảng đường đại học để trở thành bác sĩ nhưng cô bé cũng lo bố mẹ không có tiền đóng học cho mình.
Nguyệt và Đòa (ở giữa) là hai tấm gương vượt khó tiêu biểu của nhà trường. Ảnh: Hoàng Phương. |
Đến giờ, Đòa vẫn còn nhớ cảm giác lo sợ khi ngồi chênh vênh trên chiếc mảng ghép từ những cây luồng. Tay Đòa nắm chặt hai em nhỏ và không dám thở mạnh cho đến khi sang bờ bên kia. Hôm nào mưa to, nước dâng cao, bè mảng không qua sông là chị em Đòa phải nghỉ học.
Hết lớp 3, bố mẹ muốn Đòa nghỉ vì sợ đi học sẽ bị rơi xuống sông và tiền đi bè mảng còn nhiều hơn cả tiền đóng học. Nhà có bốn chị em, em gái kế sau Đòa đã phải nghỉ học ở nhà đi nương. Cô bé nước mắt ngắn dài xin bố mẹ cho mang theo hai em vào bản Cò Cài để tiếp tục đi học.
Mỗi chiều sau khi ôn bài xong, Nguyệt và Đòa thường rủ nhau đi lấy củi, hái rau rừng. Bữa cơm của các em chỉ có rau rừng chấm nước mắm, mùa măng có thêm đĩa măng luộc chấm muối, thỉnh thoảng có quả trứng, miếng thịt.
Cuối tuần được nghỉ, Nguyệt dắt Kiên, Đòa cõng em út, tay dắt em gái đi bộ 5 km mới về đến bản Chiềng. Chiều chủ nhật, năm đứa trẻ lại quay về Cò Cài để kịp đi học tuần sau.
Căn lán nhỏ của ba chị em Đòa. Ảnh: Hoàng Phương. |
Thầy Phạm Đăng Dung, Hiệu trưởng Trường tiểu học Trung Lý 2 cho biết, Nguyệt và Đòa là hai tấm gương vượt khó tiêu biểu của nhà trường. Cả hai đều là học sinh khá, giỏi liên tục trong nhiều năm.
"Trường đã miễn mọi khoản đóng góp và khen thưởng trực tiếp khi các em đạt thành tích tốt. Ngoài giờ học, các thầy cô giáo cũng thường xuyên đến lán xem tình hình ăn ở của học trò, xin điện của nhà dân để các em có ánh sáng học bài", thầy Dung cho hay.
Theo thầy Dung, học sinh của nhà trường chủ yếu là người dân tộc Thái và Mông, có hoàn cảnh khó khăn. Các em ở bản xa nhưng rất ham học, đều có một mong muốn được đi học để thoát nghèo.
Theo Hoàng Phương/VNE
Bình luận