Tại Việt Nam, ung thư dạ dày có tỉ lệ mắc và tỉ lệ tử vong đứng thứ 3 ở nam giới và thứ 5 ở nữ giới. Trong đó, 80% được phát hiện ở giai đoạn muộn nên bệnh nhân có thời gian sống ngắn. Một trong những lý do quan trọng để phát hiện sớm ung thư dạ dày là quản lý và theo dõi được những bệnh nhân có trạng thái “tiền ung thư”, đó là tình trạng viêm teo, dị sản.
Viêm teo và dị sản ruột ở niêm mạc dạ dày là hai trạng thái trung gian, gần tiến đến ung thư dạ dày.
Viêm teo, dị sản ruột ở dạ dày là gì?
Viêm teo dạ dày phát triển khi tế bào viền của dạ dày bị viêm kéo dài trong một vài năm. Như trên đã nói, viêm dạ dày chủ yếu do nhiễm khuẩn Hp. Vi khuẩn Hp làm thoái hóa lớp chất nhày bảo vệ niêm mạc dạ dày khỏi acid và dịch tiêu hóa, dần dần phá hủy các tế bào niêm mạc dạ dày nếu không được điều trị. Trong một vài trường hợp, viêm teo dạ dày xảy ra khi hệ thống miễn dịch của cơ thể tấn công vào các tế bào khỏe mạnh của thành tế bào. Dạng bệnh lý này gọi là viêm teo dạ dày tự miễn, tuy nhiên thường xảy ra ở các nước phương Tây.
Dị sản ruột ở dạ dày là tình trạng tiếp theo của viêm teo, tiến gần sát hơn đến ung thư. Khi tế bào niêm mạc dạ dày bị teo nặng, không đủ khả năng tiết acid, làm cho môi trường pH trong dạ dày tăng lên, khi đó niêm mạc ruột sẽ phát triển không hoàn chỉnh ở dạ dày - gọi là dị sản ruột. Khi bệnh nhân có dị sản thì thường có viêm teo kèm theo.
Nguyên nhân gây ra viêm teo, dị sản ruột ở dạ dàyViêm teo dạ dày thường gây ra bởi nhiễm vi khuẩn hp. Đường lây truyền chủ yếu là miệng - miệng hoặc phân - miệng. Miệng - miệng xảy ra khi người lớn nhá cơm cho trẻ, nhiều người ăn chung bát canh mà không dùng riêng đũa để gắp, chấm chung bát nước mắm, hôn nhau...
Phân - miệng tức là khi ăn thực phẩm sống (rau, quả), nước uống... chưa rửa sạch, chưa khử trùng, có nhiễm vi khuẩn từ nguồn nước, phân bón, đất... Ở Việt Nam, tình trạng trẻ em nhiễm vi khuẩn Hp khá phổ biến, quá trình nhiễm lâu dài sẽ làm cho tình trạng viêm của dạ dày trở thành mạn tính, rồi viêm teo, dị sản.
Ngoài ra, các nguyên nhân khác như: uống rượu, trào ngược dịch mật, ăn đồ cay, nhiều muối... có tác dụng hóa học lên niêm mạc dạ dày dẫn đến tình trạng viêm mạn tính. Có những bệnh nhân có nhiều yếu tố nguy cơ cùng tác động lên dạ dày đồng thời như nhiễm Hp, uống rượu bia và ăn nhiều cay.
Triệu chứng viêm teo, dị sản ruột ở dạ dày
Viêm teo dạ dày có triệu chứng tương tự viêm dạ dày nhiễm Hp. Rất nhiều trường hợp viêm teo dạ dày không được chẩn đoán bởi không có triệu chứng gì. Tuy nhiên, các dấu hiệu phổ biến của nhiễm khuẩn Hp bao gồm: đau dạ dày, nôn và buôn nôn, chán ăn, sút cân, loét dạ dày, thiếu máu thiếu sắt.
Bệnh viêm dạ dày tự miễn có thể làm thiếu hụt vitamin B12 và gây bệnh thiếu máu ác tính với các triệu chứng như: suy yếu; thiếu minh mẫn; chóng mặt; đau ngực; đánh trống ngực; ù tai; thiếu vitamin B12 còn gây ra tổn thương thần kinh, dẫn tới tê chân tay, ngứa ran; đi lại không vững; rối loạn thần kinh...
Có nhiều phương pháp chẩn đoán viêm teo, dị sản ruột ở dạ dày. Nội soi để đánh giá tình trạng niêm mạc, làm xét nghiệm vi khuẩn Hp và sinh thiết làm xét nghiệm tế bào. Xét nghiệm máu thấy thiếu hụt pepsinogen - loại protein được sản xuất từ tế bào dạ dày; tăng nồng độ gastrin - một hormon kích thích tiết acid dạ dày; giảm nồng độ vitamin B12...
Cách phòng ngừa viêm teo, dị sản ruột dạ dày
Viêm teo dạ dày do Hp có thể điều trị để hồi phục niêm mạc dạ dày. Khi có các triệu chứng nêu trên bệnh nhân nên khám nội soi dạ dày để tìm nguyên nhân hoặc khi đã có chẩn đoán viêm teo thì phải tuân thủ điều trị và hướng dẫn theo dõi của bác sĩ. Cũng cần lưu ý là tỉ lệ tái nhiễm ở Việt Nam khá cao, khoảng 20% trong khi đó ở các nước phát triển tái nhiễm chỉ 2%.
Khi niêm mạc chuyển sang trạng thái dị sản ruột thì không còn cơ hội hồi phục được nữa. Do vậy, bệnh nhân có dị sản ruột cần phải theo dõi chặt chẽ để phát hiện sớm tổn thương ung thư. Thông thường, những bệnh nhân này nên đi nội soi kiểm tra 6 tháng đến 1 năm/lần.
Để phòng chống nhiễm khuẩn Hp, bạn có thể áp dụng các biện pháp vệ sinh trong ăn uống, không nhá cơm cho trẻ ăn, rửa tay trước khi ăn, ăn chín, uống sôi, vệ sinh nguồn nước, giáo dục trẻ em về các biện pháp phòng bệnh. Hạn chế uống rượu bia, ăn mặn và ăn cay để phòng tránh viêm dạ dày mạn tính.
Bình luận