Các Phật tử mỗi khi chào nhau đều dùng câu “Nam mô A Di Đà Phật”. Trong các chùa cũng luôn có tượng Phật A Di Đà. Nhiều người thắc mắc không biết Phật A Di Đà là ai, có phải chính là Phật Thích Ca – người khai sinh Phật giáo?
Theo giáo lý nhà Phật, đức Thích Ca không phải vị Phật duy nhất. Trước ngài có nhiều vị Phật khác từng đến thế gian và sau ngài cũng sẽ như vậy. Phật Thích Ca là con người được ghi nhận trong sách sử, là thái tử Siddhartha của hoàng tộc Gautama (Cồ-Đàm) tại tiểu quốc Shakya (Thích Ca), được cho là sinh vào khoảng năm 624 trước Công nguyên.
Thái tử Siddhartha kết hôn và có một con trai trước khi xuất gia tu hành vào năm 29 tuổi. Ngài trải qua nhiều phương thức tu hành, có cả khổ tu, nhưng không tìm được con đường giải thoát, cho đến khi tự mình giác ngộ con đường trung đạo sau 49 ngày đêm thiền định dưới gốc bồ đề. Sau đó, toàn bộ cuộc đời ngài dành cho việc truyền bá con đường thoát khổ đó cho nhân loại.
Đức Phật Thích Ca thọ 80 tuổi.
Đức Phật A Di Đà là ai?
Đây là vị Phật được tôn thờ nhiều nhất trong Phật giáo Đại thừa. Tên của ngài có nghĩa là Vô lượng thọ, Vô lượng quang (hào quang trí tuệ chiếu khắp các thế giới), Vô lượng công đức. Ngài xuất hiện trước đức Thích Ca rất lâu.
Theo kinh Đại A Di Đà, thời rất xa xưa, có một vị quốc vương tên Kiều Thi Ca sau khi nghe một vị Phật thuyết pháp liền bỏ ngôi xuất gia tu hành, lấy hiệu Pháp Tạng. Ông phát ra 48 lời nguyện cứu độ chúng sinh, trong đó có đại nguyện rằng sau khi tu thành Phật sẽ tịnh hoá một thế giới và biến nó thành một trong những vương quốc thanh tịnh và đẹp đẽ nhất, chúng sinh nào hướng niệm đến ngài sẽ được tiếp dẫn để vãng sinh ở đó. Sau này ngài hoàn thành đại nguyện và thành Phật A Di Đà. Thế giới tịnh hóa của ngài thường được Phật tử hình dung là chốn Tây phương cực lạc.
Trong các ngôi chùa, bạn có thể nhận ra tượng Phật A Di Đà qua các đặc điểm sau: Trên trên đầu có các cụm tóc xoắn ốc, mắt nhìn xuống, miệng thoáng nụ cười cảm thông cứu độ, khoác trên người áo cà sa màu đỏ.
Phật A Di Đà có thể ở tư thế đứng, tay phải đưa ngang vai, chỉ lên, tay trái đưa ngang bụng, chỉ xuống, hai lòng bàn tay hướng về phía trước; trong mỗi tay, ngón trỏ và ngón cái chạm nhau làm thành vòng tròn.
Một cách phân biệt rõ ràng nhất là Phật A Di Đà trước ngực có chữ Vạn.
Bình luận