Ông Tạ Quang Chiến (tên thật là Nguyễn Hữu Văn) sinh năm 1925 tại Thanh Hóa, quê gốc ở Gia Lộc, Hải Dương. Năm 10 tuổi, cậu bé Văn theo gia đình ra Hà Nội sinh sống. Sớm giác ngộ cách mạng, khi mới 18 tuổi, Nguyễn Hữu Văn đã tham gia hoạt động trong tổ chức thanh niên cứu quốc.
12 năm làm cận vệ kiên trung bên Bác Hồ
Cách mạng Tháng Tám thành công cũng là lúc chàng thanh niên Nguyễn Hữu Văn vừa tròn 20 tuổi. Với thành tích và nhiệt huyết cách mạng, Nguyễn Hữu Văn được tuyển vào Đội Tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu, đơn vị vũ trang đặc biệt trực thuộc Thành ủy Hà Nội.
Những ngày đầu cách mạng, công tác bảo vệ Bác Hồ gặp rất nhiều khó khăn. Tháng 10/1945, Trung ương Đảng quyết định tăng cường lực lượng bảo vệ Bác Hồ. Khi đó, ông Nguyễn Lương Bằng đã chọn chàng thanh niên Nguyễn Hữu Văn vào tổ giúp việc cho Bác Hồ.
Ông Văn được bố trí bảo vệ Chủ tịch Hồ Chủ tịch đến thăm các vị nhân sĩ, trí thức Hà Nội, bảo vệ Bác dự kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I và những chuyến đi kinh lý các tỉnh như Thái Bình, Thanh Hóa, Nam Định, Ninh Bình…
Sau khi ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng, Chính phủ rời Hà Nội lên chiến khu Việt Bắc. Sau hai tháng rời Hà Nội, Bác dừng chân tại một số địa điểm thuộc các tỉnh Hà Đông, Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội) và Phú Thọ, cùng Thường vụ Trung ương Đảng và Chính phủ trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Đầu tháng 3/1947, Bác dừng chân ở xã Cổ Tiết, nằm bên sông Hồng, thuộc huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Sáng 6/3/1947, Bác đã họp tất cả các đồng chí phục vụ, tháp tùng lại và nói: “Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta mới bắt đầu và còn lâu dài, gian khổ, nhưng nhất định sẽ thắng lợi. Từ hôm nay trở đi, để tỏ rõ quyết tâm kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, Bác đặt tên cho các chú là Trường - Kỳ - Kháng - Chiến - Nhất - Định - Thắng - Lợi”. Anh thanh niên Nguyễn Hữu Văn mang tên Tạ Quang Chiến từ đó.
Những ngày ở Việt Bắc, cuộc sống vô cùng khó khăn, thiếu thốn và gian khổ. Ngoài trách nhiệm bảo vệ, ông Chiến cùng với đồng đội giữ cả nhiệm vụ lo cơm nước cho Bác và chăm sóc cho Bác những lúc ốm đau.
Nhận nhiệm vụ mới
Sau năm 1957, ông Chiến được cử sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh về lịch sử Đảng, bảo vệ luận án tiến sĩ rồi về làm Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu lịch sử Đảng thuộc Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).
Từ năm 1966-1973, ông làm Bí thư Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Giai đoạn 1969-1981, ông Tạ Quang Chiến được giao làm Tổng cục phó rồi Tổng cục trưởng Tổng cục Thể dục thể thao (sau này là Ủy ban Thể dục Thể thao).
Trong suốt cuộc đời hoạt động, ông cũng có hơn 50 năm trong vai trò là cán bộ nghiên cứu lịch sử Đảng, lịch sử khoa học xã hội và hiện nay là lịch sử tư tưởng Hồ Chí Minh.
8 người cận vệ được Bác Hồ đặt tên
1. Đồng chí Võ Trường (tên thật là Võ Chương, quê ở Huế). Trước cách mạng ông dạy học ở Thanh Hóa, tham gia Thanh niên cứu quốc rồi được điều động về bảo vệ Bác. Khi lên đến chiến khu Việt Bắc, ông chuyển sang làm tuyên huấn, bị bệnh nặng và mất năm 1949.
2. Đồng chí Vũ Kỳ, tên thật là Vũ Long Chuẩn, quê ở Hà Đông, tham gia cách mạng từ năm 1941, bị bắt giam ở nhà tù Hỏa Lò. Năm 1945 vượt ngục, tham gia Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945. Ông làm thư ký cho Bác Hồ từ tháng 8/1945 cho đến khi Bác mất (2/9/1969).
3. Đồng chí Hoàng Hữu Kháng, quê ở Thái Bình, tên thật là Nguyễn Văn Cao. Từng bị địch giam giữ tại nhà tù Sơn La, Chợ Chu (Thái Nguyên), sau vượt ngục, tham gia xây dựng chiến khu Việt Bắc. Từng là võ sư nên ông được giao làm đội trưởng đội bảo vệ Bác. Sau này, ông được phong thiếu tướng, Cục trưởng Cục Cảnh vệ (Bộ Công an).
4. Đồng chí Tạ Quang Chiến (tên thật là Nguyễn Hữu Văn) sinh năm 1925 tại Thanh Hóa, quê gốc ở Gia Lộc, Hải Dương. Sau năm 1957, ông Chiến được cử sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh về lịch sử Đảng, bảo vệ luận án tiến sĩ rồi về làm Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu lịch sử Đảng thuộc Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh). Trong suốt cuộc đời hoạt động, ông cũng có hơn 50 năm trong vai trò là cán bộ nghiên cứu lịch sử Đảng, lịch sử khoa học xã hội và hiện nay là lịch sử tư tưởng Hồ Chí Minh.
5. Đồng chí Hồ Văn Nhất, dân tộc Tày, quê ở Lạng Sơn, tên thật là Hoàng Văn Phúc, là tự vệ căn cứ địa cách mạng ở Cao Bằng, được điều động bảo vệ Bác từ tháng 5/1945 khi Bác từ Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang). Sau này, ông trở thành cán bộ Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh.
6. Đồng chí Võ Viết Định, tên thật là Chu Phương Vương, là chiến sĩ quân giải phóng, quê ở Cao Bằng, được điều động bảo vệ Bác tới năm 1950 thì chuyển công tác.
7. Đồng chí Nguyễn Quang Thắng, tên thật là Nguyễn Quang Chí. Người thứ bảy được mang tên Thắng đầu tiên là ông Nguyễn Quang Chí, tức Nguyễn Văn Huy. Bảy tháng sau ngày được Bác Hồ đặt tên, ông chuyển công tác khác, nên ông Triệu Văn Cắt, tức Triệu Tiến Thọ, người dân tộc Mán, quê ở tỉnh Thái Nguyên được đặt tên thay, là Triệu Hồng Thắng.
Sau năm 1954, ông được cử làm Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Khu tự trị Việt Bắc. Ông mất năm 1975.
8. Đồng chí Trần Lợi, tên thật là Trần Đình, người Nùng ở Cao Bằng, nguyên chiến sĩ quân giải phóng, bảo vệ Bác tới năm 1950 thì chuyển công tác về địa phương.
Bình luận