• Zalo

Mô hình sản xuất tôm - lúa hiệu quả ở Kiên Giang

Doanh nghiệp - Doanh nhânThứ Hai, 29/05/2023 17:56:52 +07:00Google News
(VTC News) -

Mô hình sản xuất tôm – lúa quản lý cộng đồng là một trong những giải pháp sản xuất nhằm nâng cao đời sống người dân ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

Với sự hỗ trợ từ dự án chống chịu khí hậu tổng hợp và sinh kế bền vững ĐBSCL (MD-ICRSL), Kiên Giang đã triển khai mô hình sản xuất tôm sú - lúa quản lý cộng đồng tại xã Vân Khánh Tây (huyện An Minh) và xã Tây Yên A (huyện An Biên) với diện tích trên 116 ha. Các hộ dân tham gia Dự án được hỗ trợ con giống, men vi sinh, thức ăn tôm, máy sục khí oxy... và hỗ trợ kỹ thuật để chuyển đổi từ canh tác 2 vụ lúa sang luân canh 1 vụ lúa và 1 vụ tôm.

Theo đánh giá chung tại các mô hình tôm - lúa quản lý cộng đồng, triển khai tại huyện An Biên và An Minh, năng suất tôm đã tăng từ 250 kg/ha lên 357 kg/ha (tăng 107 kg/ha, tương ứng mức tăng 38%. Năng suất lúa bình quân từ 4,29 tấn/ha lên 4,62 tấn/ha (tăng 330 kg/ha, tương ứng 7,6%). Lợi nhuận khi thực hiện mô hình cũng tăn từ 40,2 triệu đồng/ha, lên 55,7 triệu đồng/ha (tăng 15,4 triệu đồng/ha, tương ứng 38%).

Tôm nuôi trong ruộng lúa chủ yếu sử dụng thức ăn tự nhiên, chi phí thức ăn thấp, ít dịch bệnh. Sản xuất lúa hoàn toàn không sử dụng phân bón và thuốc hóa học. Do là sản phẩm sạch cho nên tôm - lúa sau thu hoạch có đầu ra với giá ổn định ở mức cao.

Mặt khác, một lợi ích không kém phần quan trọng trong canh tác luân canh tôm - lúa là sử dụng tài nguyên nước hợp lý theo từng thời điểm và từng mùa trong năm, thích ứng với điều kiện tự nhiên, thời tiết khí tượng thủy văn của địa phương. Mô hình luân canh tôm lúa cũng giải quyết vấn đề ô nhiểm nguồn nước, thoái hóa vùng nuôi tôm, giảm thiểu rủi do dịch bệnh từ đó giúp nghề nuôi tôm phát triển bền vững.

Mô hình sản xuất tôm - lúa hiệu quả ở Kiên Giang - 1

Mô hình sản xuất tôm - lúa quản lý cộng đồng ở Kiên Giang cho thu nhập ổn định, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Theo Phòng NN&PTNT huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang, mô sản xuất tôm - lúa nói trên thích ứng với điều kiện tự nhiên, bởi ở đây là do vào mùa khô, điều kiện nước mặn trên kênh rạch xâm nhập vào sâu, thuận lợi cho việc thả nuôi tôm. Sau khi thả nuôi tôm từ tháng 1 đến tháng 8, mùa mưa đến, nước ngọt trên kênh rạch chảy xuống là điều  kiện thuận lợi để cải tạo nước mặn và gieo xạ vụ lúa sao cho phù hợp với thời tiết cũng như là đặc điểm của mùa vụ.

Theo Ban Quản lý Trung ương các dự án Thuỷ lợi (CPO Thuỷ lợi), qua 6 năm thực hiện, dự án MD-ICRSL do Ngân hàng Thế giới (WB) hỗ trợ đã giúp hơn 1 triệu nông dân địa phương chuyển đổi sang những hình thức sản xuất thích ứng với khí hậu và sử dụng nguồn tài nguyên hiệu quả. Các loại hình sinh kế của dự án chứng minh có thể là giải pháp thay thế cho các loại hình sinh kế truyền thống mà vẫn đem lại lợi nhuận cho người dân.

Hiện nay, vùng thượng nguồn nói riêng và ĐBSCL nói chung đang phải đối mặt không ít khó khăn, thách thức do ảnh hưởng bởi những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu như hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở… Để tăng nguồn lực cho ĐBSCL, vừa qua Bộ NN&PTNT và Ngân hàng Thế giới tổ chức hội thảo về đề xuất dự án chống chịu khí hậu và chuyển đổi tổng hợp vùng ĐBSCL (WB11).

Mô hình sản xuất tôm - lúa hiệu quả ở Kiên Giang - 2

Luân canh tôm - lúa là mô hình mẫu về sản xuất thuận thiên đang được nhân rộng tại nhiều vùng ven biển ĐBSCL.

Theo tổng hợp đề xuất của CPO Thuỷ lợi, Dự án WB 11 với mục tiêu tăng cường tính chống chịu khí hậu và nâng cao sinh kế tại 9 tỉnh vùng ĐBSCL, gồm: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Hậu Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Trà Vinh và Tiền Giang.

Dự án sẽ tập trung thực hiện các giải pháp công trình và phi công trình, nhằm giải quyết vấn đề, cải thiện, phát triển chuỗi ngành hàng chủ lực, nâng cao thu nhập cho người dân. Đồng thời, chuyển đổi mô hình phát triển từ phân tán, nhỏ lẻ sang tập trung, phát triển cụm ngành kinh tế nông nghiệp gắn kết với các khu đô thị hóa, công nghiệp hóa và du lịch, từ đó tạo ra công việc làm, thu nhập cao hơn cho người lao động.

Dự án WB 11 dự kiến có 3 hợp phần: hợp phần 1 sẽ tăng cường thể chế và các hệ thống thông tin; hợp phần 2 đi vào đầu tư hạ tầng chống chịu khí hậu cấp vùng; hợp phần 3 là thúc đẩy đa dạng sinh kế và kinh tế nông thôn thích ứng biến đổi khí hậu.

Về tiến độ triển khai Dự án WB 11, Bộ NN&PTNT đã yêu cầu các đơn vị chức năng của Bộ nỗ lực để tháng 12/2023 sẽ có những dự án thành phần đầu tiên trình lãnh đạo Ngân hàng Thế giới.

Ngọc Huyền
Bình luận
vtcnews.vn