Thứ Sáu ngày 13/03/1964, Kitty Genovese 28 tuổi đang trở về nhà sau khi đi làm về. Khi gần đến lối vào căn hộ, cô bị tấn công và bị đâm bởi một người đàn ông.
Mặc cho cô gái không ngừng kêu cứu, khoảng hơn chục người ở căn hộ gần đó nghe thấy tiếng kêu khóc của cô gái mà không ai gọi cảnh sát báo về vụ việc. Cuộc tấn công bắt đầu lúc 3:20 sáng, những mãi đến 3:50 sáng mới có người đầu tiên nhấc máy gọi cảnh sát.
Tháng 10 năm 2011, một bé gái 2 tuổi ở Trung Quốc bị xe tải tông phải khi đang đi đường. Mặc dù bé nằm bị thương trên đường và có 18 người đi ngang nhưng không ai giúp cả. Cuối cùng, một người đàn ông đã gọi cấp cứu. Bé gái được đưa đến bệnh viện và qua đời 8 ngày sau đó.
Câu hỏi đặt ra là tại sao người khác chỉ đi ngang và không giúp đỡ? Điều gì đã làm họ bỏ mặc người cần được giúp? Hiện tượng này được gọi là Bystanders Effect - hiệu ứng Người ngoài cuộc.
Hiệu ứng Người ngoài cuộc là gì?
Người đầu tiên phát hiện và nghiên cứu hiện tượng này là hai nhà tâm lý học: John Darley và Bibb Latané vào năm 1986. Hai nhà khoa học người Mỹ đã phát hiện ra hiệu ứng này thông qua vụ án giết người của Kitty Genovese vừa kể trên.
Thuật ngữ Bystanders Effect - hiệu ứng Người ngoài cuộc (hay còn gọi là Hiệu ứng Bàng Quan) được dùng để mô tả hiện tượng: Khi càng nhiều người có mặt tại hiện trường thì lại càng có ít người giúp đỡ nạn nhân.
Cụ thể, khi một tình huống khẩn cấp xảy ra, những người quan sát có thể sẽ hành động khi chỉ có ít hoặc không có nhân chứng nào khác ở đó. Việc coi mình là một phần của đám đông khiến không ai đứng ra chịu trách nhiệm để hành động (hay không hành động).
Lý giải hiệu ứng Người ngoài cuộc
Có 2 yếu tố chính góp phần hình thành hiệu ứng này.
Thứ nhất, sự hiện diện của người khác tạo nên một sự lan tỏa về trách nhiệm. Khi có nhiều người, mỗi cá nhân không cảm thấy có nhiều áp lực phải hành động. Trách nhiệm phải hành động được họ nghĩ là chia sẻ cho tất cả mọi người cùng có mặt ở đó.
Thứ hai là nhu cầu cư xử đúng và được xã hội chấp nhận. Khi những người khác không phản ứng, các cá nhân cho rằng đây là tín hiệu cho biết việc can thiệp là "không cần thiết và không thích hợp".
Các nhà nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng, những người chứng kiến ít có xu hướng can thiệp vào những tình huống có tính chất mơ hồ, không rõ ràng. Tính chất của tình huống cũng đóng một vai trò nhất định.
Trong quá trình bị nạn, mọi vấn đề xung quanh thường rất hỗn loạn và tình huống trở nên không rõ ràng, những người chứng kiến không rõ điều gì đang xảy ra. Trong thời điểm hỗn loạn ấy mọi người thường quan sát người khác để xác định cái gì là phù hợp. Khi mọi người thấy đám đông không có ai phản ứng gì và họ nghĩ đó là tín hiệu rằng không cần can thiệp.
Làm sao để ngăn chặn hiệu ứng Người ngoài cuộc?
Như vậy bạn có thể làm gì để tránh không rơi vào cái “bẫy bàng quan” này? Một số nhà tâm lý học đề xuất chúng ta đơn giản là chỉ cần nhận biết khuynh hướng này, đây có lẽ là cách tốt nhất để phá vỡ nó.
Khi đối mặt với một tình huống đòi hỏi phải hành động, việc hiểu ra rằng hiệu ứng Người ngoài cuộc đang níu giữ bạn lại có thể giúp bạn chủ động vượt qua và thực hiện hành động. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là bạn phải đặt bản thân vào tình huống nguy hiểm.
Nhưng nếu bạn là người cần giúp đỡ thì sao? Làm sao bạn có thể khiến người khác chìa tay giúp đỡ mình? Một chiến thuật thường được đề xuất là chọn ra một người trong đám đông đó. Sử dụng kết nối bằng ánh mắt và nhờ một người cụ thể giúp mình. Bằng cách cá nhân hóa đối tượng nhờ vả, người đó sẽ khó mà từ chối.
Bình luận