Nhiều người đôi khi nhớ về cùng một sự kiện rất khác nhau do ký ức có thể thay đổi. Con người có thể bị cấy ký ức giả, hoặc do não tự tạo ra những ký ức không thật. Tuy nhiên, việc não bộ đôi khi tự tạo ra ký ức giả không hẳn là tiêu cực, theo Science Alert.
Elizabeth F. Loftus, giáo sư tâm lý học nhận thức và ký ức con người, thực hiện các nghiên cứu cho thấy ký ức có thể bị bóp méo.
Trong một nghiên cứu, người tham gia được xem những video mô phỏng các vụ tai nạn hoặc phạm tội. Các nhà khoa học sau đó khiến họ tin rằng chiếc xe trong vụ tai nạn chạy qua một biển báo dừng lại thay vì biển báo nhường đường, hoặc tên trộm có tóc xoăn thay vì tóc thẳng.
"Việc bóp méo ký ức về những chi tiết mà người xem thực sự nhìn thấy được thực hiện khá dễ dàng bằng cách cung cấp cho họ những thông tin gợi nhắc", Loftus cho biết.
Nhóm nghiên cứu tiếp tục đặt ra câu hỏi, liệu có thể cấy ký ức hoàn toàn giả vào não người về những chuyện chưa từng xảy ra hay không. Kết quả là điều này hoàn toàn khả thi.
Loftus và một số nhà nghiên cứu khác, trong đó có Julia Shaw, cấy thành công ký ức mới vào não người bình thường. Trong một nghiên cứu, các nhà khoa học khiến 70% người tham gia tin rằng mình đã phạm tội như ăn trộm hay hành hung chỉ bằng các kỹ thuật lấy ký ức trong những cuộc thẩm vấn.
Họa sĩ nổi tiếng Salvador Dali từng nói: "Khác biệt giữa ký ức giả và ký ức thật cũng giống như với đá quý, những viên giả lúc nào trông cũng thật nhất, rực rỡ nhất". Điều này có thể giúp giải thích tại sao con người nhanh chóng tin vào những ký ức giả.
Khái niệm về bóp méo ký ức xuất hiện hơn 100 năm trước, khi nhà tâm lý Hugo Münsterberg viết trên tạp chí Times về trường hợp một phụ nữ tử vong ở Chicago. Con trai của một người nông dân bị buộc tội giết người. Sau khi bị cảnh sát thẩm vấn, anh ta thừa nhận mình đã sát hại người phụ nữ dù bản thân có chứng cớ ngoại phạm.
Anh ta sẵn sàng thú tội và kể đi kể lại sự việc, mỗi lần lại chi tiết hơn. Câu chuyện ngày càng trở nên mâu thuẫn và vô lý. Tuy nhiên, chàng trai cuối cùng vẫn bị kết tội và xử tử. Münsterberg cho rằng anh ta đã vô thức tự dựng lên câu chuyện sau khi cảnh sát thẩm vấn.
Những lời nhận tội sai có thể xảy ra khi bị tra hỏi quyết liệt. Có thể nạn nhân thực sự tin rằng họ đã phạm tội, hoặc họ chỉ muốn kết thúc tình trạng bị thẩm vấn. Loftus cho biết, trừ khi có lý do để nghi ngờ ký ức của ai đó bị bóp méo, không có cách nào biết chắc người này đang kể lại một ký ức giả nếu chỉ lắng nghe.
Các nhà khoa học thần kinh từng tiến hành quét não những người có ký ức giả và thật để tìm ra điểm khác biệt. Trong một nghiên cứu của Đại học Daegu, Hàn Quốc, 11 người tham gia đọc một danh sách gồm nhiều từ xếp theo từng nhóm khác nhau, ví dụ như "động vật chăn nuôi".
Sau đó, nhóm nghiên cứu hỏi họ xem một số từ nhất định có nằm trong danh sách ban đầu không, đồng thời sử dụng phương pháp chụp cộng hưởng từ chức năng để phát hiện thay đổi trong lưu thông máu đến các vùng não.
Khi những người tham gia tự tin vào câu trả lời của mình và nói đúng, lưu thông máu đến hồi hải mã tăng. Hồi hải mã là vùng não quan trọng trong việc lưu giữ thông tin và hình thành ký ức. Nếu họ tỏ ra chắc chắn nhưng lại trả lời sai, số trường hợp này chiếm khoảng 20%, lưu thông máu đến vùng não trán và đỉnh lại tăng. Đây là khu vực gắn với cảm giác quen thuộc.
Có một giả thuyết giải thích tại sao não lại xuất hiện những ký ức giả gọi là "giả thuyết theo dấu mơ hồ" do các nhà nghiên cứu Charles Brainerd và Valerie F. Reyna đưa ra. Đây cũng là giả thuyết đầu tiên giải thích mô hình Deese-Roediger-McDermott (DRM).
Theo mô hình DRM, người tham gia được cung cấp một danh sách các từ liên quan đến nhau như giường, ngủ, mệt mỏi, mơ, ngáp, sau đó phải nhắc lại nhiều từ nhất có thể. Họ bắt đầu liệt kê những từ liên quan như ngủ trưa hay chợp mắt, trong khi chúng không thuộc danh sách ban đầu.
"Mọi người nhắc lại những từ không nằm trong danh sách và tỏ ra rất chắc chắn. Đó là ký ức giả", Reyna cho biết.
Theo giả thuyết theo dấu mơ hồ, có hai loại ký ức là ký ức nguyên văn và ký ức ý chính. Ký ức nguyên văn là khi con người nhớ chính xác những chuyện xảy ra một cách chi tiết, trong khi ký ức ý chính là những hình dung mơ hồ về sự việc trong quá khứ.
"Khi trưởng thành và già đi, chúng ta phụ thuộc nhiều vào ký ức ý chính hơn là nhớ nguyên văn", Reyna nói. Ký ức ý chính ảnh hưởng nhiều hơn khi nhớ lại một sự kiện đã xảy ra trước đó một khoảng thời gian dài.
Giả thuyết theo dấu mơ hồ dự đoán chính xác ảnh hưởng của tuổi tác đến ký ức, gọi là "hiệu ứng phát triển ngược". Khi trưởng thành, ký ức nguyên văn sẽ phát triển, người ta có thể kể lại các sự kiện chi tiết hơn, nhưng đồng thời ký ức ý chính cũng phát triển. "Điều này nghĩa là nếu bù trừ tất cả những ký ức đúng và ký ức sai thì tỷ lệ nhớ chính xác của trẻ em sẽ cao hơn người lớn", Reyna giải thích.
Trên thực tế, dù ai cũng tạo ra ký ức giả ở mức độ nào đó nhưng mọi người vẫn xoay sở tốt, Reyna nhận định. Xét theo quan điểm tiến hóa, thậm chí việc dựa vào ký ức ý chính còn mang lại một số lợi ích.
Nghiên cứu của Reyna cho thấy, ký ức ý chính giúp con người đưa ra những quyết định có lợi hơn khi đứng trước rủi ro.
Nghịch lý Allais đặt ra tình huống, người tham gia được quyền lựa chọn giữa ván cược A với tỷ lệ 100% trúng một triệu USD và ván cược B với tỷ lệ 89% trúng một triệu USD, 10% trúng 5 triệu USD và 1% không được gì.
Trên quan điểm kinh tế, nếu tính toán theo công thức, bạn nên chọn B để có khả năng nhận được nhiều tiền nhất. Tuy nhiên, thực tế phần lớn mọi người lại chọn A để chắc chắn mang về một triệu USD.
Video: Nghiên cứu sốc - Mỗi lần stress, bộ não già đi 4 tuổi
"Phần lớn mọi người cho rằng nhận một khoản tiền lớn thì tốt hơn là gặp rủi ro chẳng được gì cả, đó là do ký ức ý chính. Ký ức ý chính và xu hướng lựa chọn theo cách này tăng lên khi trưởng thành. Vấn đề không phải là tối đa hóa số tiền mà là nhìn vào những khả năng chắc chắn", Reyna giải thích.
Thay vì cho rằng ký ức không hoàn hảo là ảnh hưởng tiêu cực của tuổi tác, mọi người hãy nghĩ nó có thể giúp chúng ta đưa ra những quyết định an toàn, đầy đủ thông tin hơn, Reyna nhận xét. Ký ức ý chính cũng là một cách thể hiện não người có khả năng thích ứng tốt với xung quanh.
Bình luận