Kỳ 1: Những vụ tham nhũng, vơ vét điển hình
Kỳ 2: Chuyện các vua phòng chống tham nhũng
Kỳ 3: Các triều vua phòng chống tham nhũng: Trị để răn đe, cảnh tỉnh
Dâng thất trảm sớ
Chu Văn An (1292 - 1370) là bậc hiền Nho, một tấm gương tiết tháo, suốt đời không màng danh lợi. Ông có công lao to lớn trong truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo Khổng.
Nhận thấy tài năng và đức độ của Chu Văn An, vua Trần Minh Tông (1300 - 1357) đã mời ông ra làm Tư nghiệp trường Quốc Tử Giám dạy học cho thái tử. Đến đời vua Trần Dụ Tông, thế sự thay đổi, vua quan ăn chơi sa đọa, gian thần tham nhũng, đục khoét nên dân cơ cực hơn. Cảm xót trước vận mệnh nước nhà, Chu Văn An đã nhiều lần can ngăn nhưng vua không nghe. Đỉnh điểm ông đã dâng sớ xin vua chém 7 nịnh thần nhưng bất thành. Ông cáo quan về dạy học, viết sách cho đến lúc mất.
Đây là tờ sớ mang dấu ấn lịch sử rất quan trọng, Tiến sỹ Lê Tung dưới triều vua Lê Thánh Tông và Lê Tương Dực, tác giả của Đại Việt thông giám tổng luận viết rằng: "Thất trảm chi sớ nghĩa động quỷ thần". Danh sỹ Nguyễn Văn Lý (thế kỷ XX) có thơ:
Thất trảm vô vi tồn quốc luận
Cô vân tuy viễn tự thân tâm
(Nghĩa là: Sớ thất trảm không được thi hành, cả nước bàn luận. Đám mây tuy xa vẫn tự có tinh thần trong lòng)
5 nguy cơ mất nước
Xuất thân dòng khoa bảng, Lê Quý Đôn (1726-1784) có kiến thức uyên bác trong nhiều lĩnh vực như: Lịch sử, địa lý, thiên văn, lý số, khoa học, kinh sách và thơ văn… Trong đó bộ Vân đài loại ngữ của ông được coi là bộ Bách khoa toàn thư hoàn hảo nhất thời Lê Trung hưng. Trong bối cảnh vua Lê - chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong khiến bảng nhãn Lê Quý Đôn ý thức được hiểm họa thường lặp lại của lịch sử là mỗi lần nước Nam rối ren, suy yếu thì phương Bắc lại dòm ngó xâm lăng.
Vì thế, ông đã khuyến cáo triều đình 5 nguy cơ sẽ bị mất nước, gồm: Một là sĩ phu thức giả ngoảnh mặt đi trước thời cuộc; Hai là xã tắc tham nhũng tràn lan; Ba là binh kiêu ngạo, tướng thoái hóa; Bốn là học trò không kính trọng thầy giáo và 5 là trẻ con khinh thường người già. Lê Quý Đôn vốn tinh thông về lý học, biết trời đất hết vơi rồi lại đầy, hết đầy rồi lại vơi, nhưng theo ông thì phải “tận nhân lực mới tri thiên mạng”.
“Đẽo dân, mình béo, dân căm hờn”
Đặng Huy Trứ (1825-1874) nổi tiếng thông minh, dĩnh ngộ từ nhỏ. Ra làm quan, Đặng Huy Trứ lần lượt trải các chức: Thông phán Ty Bố chính Thanh Hóa, Tri huyện Quảng Xương, Tri phủ Thiên Trường (Nam Định). Một thời gian sau, ông được triệu về kinh làm Hàn lâm viện trước tác rồi Ngự sử. Ông là người đầu tiên mang nghề nhiếp ảnh vào Việt Nam khi mở hiệu ảnh ở phố Thanh Hà (Hà Nội) vào năm 1868.
Là mệnh quan của triều đình nhưng ông cũng là nhà thơ và đặc biệt bộ sách Từ thụ yếu quy có nội dung chuyên về chống hối lộ, tham nhũng. Từ thụ yếu quy nghĩa là nguyên tắc chủ yếu của việc từ chối và có thể nhận những thứ biếu xén mà người có chức quyền cần luôn luôn tỉnh táo phân biệt để giữ mình.
Mở đầu cuốn sách, ông viết: “Trong ba chữ răn mình của nhà quan thì chữ thứ nhất là Thanh. Thanh là liêm khiết giữ mình, không lấy của ai mảy may”. Tuy nhiên, gần 20 năm lăn lộn trong chốn quan trường, nên khi viết Từ thụ yếu quy, Đặng Huy Trứ có cái nhìn thật sự thông cảm trước những sự thể khó xử của người làm quan: “Trước chưa làm quan nay ra làm quan, trước địa vị thấp nay địa vị cao, khi giỗ chạp, vai lợn không kín mâm cỗ đâu có thể được? Khi đã có nhân dân, có xã tắc, muốn đi xe nát, cỡi ngựa còm đâu có thể được?...”.
Ông khẳng định không thể lấy của nước, càng không thể dùng bạo lực và mánh khóe để lấy của cấp dưới và của dân. Ông cho rằng với của mang đến thì thư tâm mà ứng xử. Ông rút ra 104 kiểu hối lộ quan chức mà từ Hán gọi là "tang". Tuy là mệnh quan triều đình, nhưng từ việc làm đến lời nói đều nhất quán với cái tâm, cái đức của bậc thức giả. Ông quan niệm bổn phận của người làm quan trước hết lạ phải vì dân: "Dân không chăm sóc chớ làm quan" và "Vì dân, bệ ngọc giải oan khiên…”. Không những thế, ông còn cho rằng:
"Mình thiệt, dân lợi, dân gắn bó
Đẽo dân, mình béo, dân căm hờn
Hờn căm, gắn bó tùy ta cả…".
Bình luận