Vào ngày này năm 1918, Nữ giới chung ra số đầu tiên và bà Sương Nguyệt Anh trở thành nữ chủ bút đầu tiên trong lịch sử báo chí Việt Nam. Nữ giới chung là tờ tuần báo, xuất bản ngày thứ sáu, số đầu tiên vào thứ sáu, ngày 1/2/1918, số cuối ra ngày 19/7/1918, nghĩa là tờ báo tồn tại được 5 tháng 19 ngày, ra được 22 số.
Sương Nguyệt Anh tên thật là Nguyễn Thị Khuê, sinh năm 1864 tại xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Bà là con gái thứ tư của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Mẹ là bà Lê Thị Điền, người làng Thanh Ba thuộc huyện Cần Giuộc. Bà Sương Nguyệt Anh qua đời năm 1921. Ngoài bút hiệu Sương Nguyệt Anh, bà còn ký nhiều tên khác như: Xuân Khuê, Nguyệt Nga, Nguyệt Anh.
Sương Nguyệt Anh từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh. Vì gia đình đông người, cha lại bị mù nên bà vừa phải chăm lo việc gia đình, vừa giúp đỡ cha làm thuốc. Ban ngày, bà thường xem cha dạy học và chữa bệnh, ban đêm bà đọc sách, tập làm thơ. Người chị của bà là Nguyễn Thị Kim Xuyến cũng học giỏi, hay chữ và có tài làm thơ từ nhỏ. Hai chị em thường được cha bày cho cách đọc sách và thơ phú. Cả hai nổi tiếng tài sắc, được người quanh vùng ca tụng gọi là Nhị Kiều.
Góa phụ ở tuổi 30
Nổi danh tài sắc, được nhiều bậc phong lưu trí thức mến mộ, nhưng cuộc đời riêng, bà không gặp may mắn. Năm 1888, Sương Nguyệt Anh được 24 tuổi thì cha mất. Tri phủ Ba Tường - ông Phủ Xuyên đến hỏi bà làm vợ không được nên mang lòng oán hận, tìm cách hãm hại. Để tránh tai họa, bà cùng gia đình người anh (Nguyễn Đình Chúc) chuyển sang Cái Nứa (Mỹ Tho) rồi dời về Rạch Miễu ở nhờ nhà ông nghè Trương Văn Mân.
Ở đây, Nguyệt Anh sánh duyên cùng ông Phó tổng Hòa Quới, tỉnh Gia Định, góa vợ, tên là Nguyễn Văn Tính, tục gọi là thầy Cai Tính, ăn ở hiền lành, rất được lòng dân chúng.
Lấy chồng chưa được bao lâu thì bà vô cùng đau xót biết tin cha mất. Nguyệt Anh và Nguyễn Văn Tính sinh được một người con gái đặt tên là Nguyễn Thị Vinh. Cô Vinh sau này kết duyên cùng ông Mai Văn Ngọc, sinh ra Mai Huỳnh Hoa, nhũ danh Kim Hoa, vợ Phan Văn Hùm.
Sinh con chưa được bao lâu thì chồng lại mất. Từ đó, bà ở vậy nuôi con gái. Lúc này cha mẹ đều qua đời, cảnh ngộ cô đơn lại càng thêm neo đơn, người góa phụ Xuân Khuê điểm thêm một chữ “Sương” trước tên hiệu “Nguyệt Anh”.
Nữ chủ bút tài hoa và trí tuệ
Những năm 1906-1908, hưởng ứng phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, bà bán một phần điền sản và vận động quyên góp để giúp học sinh sang Nhật du học.
Năm 1917, Sương Nguyệt Anh đưa cháu ngoại lên Sài Gòn, cùng một nhóm chí sĩ yêu nước chuẩn bị xuất bản tờ báo đầu tiên của phụ nữ Việt Nam. Ngày 1/2/1918, báo Nữ giới chung ra số đầu tiên, Sương Nguyệt Anh trở thành nữ chủ bút báo đầu tiên trong lịch sử báo chí Việt Nam. Nữ giới chung chủ trương nâng cao dân trí, khuyến khích công nông thương và nhất là đề cao vai trò phụ nữ trong xã hội. Tòa soạn báo đặt tại số nhà 155 đường Taberd, Sài Gòn (nay là đường Nguyễn Du, quận 1, TP.HCM).
Tuy nhiên sau gần một năm hoạt động, xuất bản được 22 số báo, tháng 7/1918, tờ báo bị đình bản. Suốt các số báo đó, Sương Nguyệt Anh dành trọn cả tài năng và tâm huyết của mình để góp phần làm chấn hưng tinh thần nữ giới nước nhà. Những số báo phát hành đều đề cập đến việc dạy nữ công, đức hạnh phụ nữ và phê phán luật lệ khắt khe với nữ giới thời đó, đồng thời chủ trương đấu tranh mạnh mẽ cho vấn đề bình đẳng nam nữ.
Sương Nguyệt Anh sáng tác nhiều, nhưng không gom thành tập. Nay chỉ còn một số bài thơ, như Đoan Ngọ nhật điếu Khuất Nguyên, Tức sự, Chinh Phụ thi, Thưởng bạch Mai, Vịnh ni cô, vua Thành Thái vào Nam, cảm tác khi lính Việt đi Âu chiến... và vài bài vè như Vè tiểu yêu, Vè thầy Hỷ, Vè đánh đề.
Đến nay, mỗi khi nhắc đến Sương Nguyệt Anh, người ta vẫn thấy ở bà một tấm gương hoạt động cho giới nữ không ngừng nghỉ. Bà là một cây bút rắn rỏi từng nêu trên tờ “Nữ giới chung” nhiều vấn đề về phận sự đàn bà đối với gia đình và xã hội. Trong buổi giao thời, phụ nữ nước nhà vừa ra khỏi khuê môn để tiếp xúc với văn hóa phương Tây, bà Sương Nguyệt Anh rất xứng đáng là nữ sĩ tiền phong trên đất Việt.
Sau "Nữ giới chung", bà lại được mời làm chủ bút tờ Đèn Nhà Nam (tờ báo cải biến từ Nữ giới chung) nhưng bà từ chối.
Thời gian này bà thường xuyên bị đau nhức mắt, sức khỏe cũng dần suy kiệt. Nghe lời thầy thuốc, Sương Nguyệt Anh dẫn cháu ngoại trở về Mỹ Chánh Hoà (Ba Tri), ở với người em út tên là Nguyễn Đình Chiêm để chữa bệnh. Nhưng chỉ thời gian ngắn, đôi mắt bà bị mù lòa hẳn. Dù vậy bà vẫn tiếp tục nối nghề cha, dạy chữ Hán và làm thuốc chữa bệnh giúp đời.
Sương Nguyệt Anh qua đời vào tháng 1/1921 tại làng Mỹ Chánh Hòa, thọ 57 tuổi. Bà được an táng cạnh mộ cha mẹ, hiện nay thuộc Khu di tích nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, ấp 6, xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Bằng tất cả tài năng, tâm huyết, suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp chung, Sương Nguyệt Anh đã để lại trong tâm trí người Việt Nam hình ảnh đẹp về một nữ chủ bút đầu tiên, một nhà thơ đa tài và một người tiên phong trong công cuộc đấu tranh vì quyền lợi, địa vị của phụ nữ Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX.
“Mỗi lần nói đến văn học sử Nam Bộ, người ta lại nghĩ tới bà, ngâm những câu thơ tế nhị của bà, nhớ đến tinh thần và chí khí thanh cao mà bà đã nêu gương cho hậu thế. Bà là nữ sĩ Thanh Quan của miền Nam”. Phạm Xuân Độ trong “Nữ thi hào Việt Nam” đã viết những dòng trân trọng như vậy về thi nghiệp của nữ sĩ Sương Nguyệt Anh.
Ngày nay, tên bà được đặt cho nhiều đường phố, trường học, câu lạc bộ... với niềm trân trọng, tự hào..
Bình luận