Có lúc, tưởng chừng cái kết nghiệt ngã đến với cam Cao Phong (Hòa Bình) thơm ngon nức tiếng một thời. Từ chính sách tốt, cách làm sáng tạo, vùng cam Cao Phong phục hồi ngoạn mục.
Một thời “núp bóng” cam Vinh
Từ nửa thế kỷ trước, những giống cam quý như Xã Đoài, Sông Con, Navel, Valencia đã di thực về Cao Phong.
Tiểu khí hậu đặc thù ở vùng đất có độ cao trên 250 m so với mực nước biển, xung quanh được bao bọc bởi các dãy núi đá vôi (nhiệt độ luôn thấp hơn nơi khác 3-4oC) đã tạo ra những trái cam mọng nước, ngọt thanh và mùi thơm khó nơi nào sánh được.
Thời kỳ kinh tế quốc doanh, Nông trường Cao Phong từng là “địa chỉ vàng” sản xuất cam xuất khẩu sang Liên Xô cũ với sản lượng đạt đỉnh điểm 3.000 tấn năm 1976. Tuy nhiên, sau cột mốc phát triển hoàng kim đó, vùng cam nơi đây bắt đầu thời kỳ lụi tàn.
Trưởng thành từ một kỹ sư nông nghiệp của Nông trường Cao Phong thời bao cấp, Phó Chủ tịch UBND huyện Cao Phong Vũ Đình Việt đan xen những cảm xúc vui, buồn khi kể về những thăng trầm của cây cam trên quê hương mình: “Ngày trước không có ni lông như bây giờ. Muốn ghép cây, chúng tôi phải dùng lạt giang để quấn quanh mắt ghép, tỷ lệ sống chưa đến 30%.
3 năm qua, cam Cao Phong được mùa, được giá... |
Đến thời kỳ thực hiện cơ chế khoán, lợi ích kinh tế gắn chặt với nông dân, vùng cam Cao Phong xuất hiện những chỉ dấu phục hồi. Tiếc rằng sự lên ngôi của cam Vinh, cam Văn Giang…, rồi cam Trung Quốc tràn vào thị trường nội địa nhanh chóng dìm thương hiệu cam Cao Phong chìm nghỉm trong trí nhớ người tiêu dùng.
Cam Cao Phong phải “núp dưới tấm áo” của cam Vinh, cam Văn Giang để len lỏi vào các sạp hoa quả các tỉnh phía Bắc; giá biến động thất thường.
Có thời điểm 1 kg cam chỉ bán được 4.000 đồng, chủ vườn tiếc buốt ruột tê gan vẫn phải bán để cứu lại chút ít vốn liếng.
Theo ông Việt, từ năm 1976 các hệ thống thủy lợi hồ Bắc Phong, Đắc Tra, Tân Phong, Tây Phong… được đầu tư xây dựng rất hoành tráng nhưng không được tu bổ thường xuyên nên nhiều hạng mục xuống cấp.
Khi mở rộng diện tích trồng cam, các hộ phải tự đầu tư hệ thống máy bơm lấy nguồn cách vườn 1 – 2 km với chi phí rất cao. Nhiều năm mới chỉ giữa mùa khô mà nước trong các hồ hoàn toàn cạn kiệt. Không ít chủ vườn phải đặt hàng các xe bồn chở nước lên đồi chống hạn cho cam với giá 200.000 đồng/téc.
“Cú hích” từ một nghị quyết
Với tham vọng xây dựng một vùng nông nghiệp hàng hóa chất lượng cao, Huyện ủy Cao Phong đã ban hành Nghị quyết 04 (năm 2006) về phát triển cây ăn quả và cây công nghiệp giai đoạn 2006 – 2010, định hướng đến năm 2015 – 2020. Trong đó ưu tiên phát triển 2 loại cây chính là mía và cây có múi (cam, quýt, bưởi).
UBND từ cấp huyện đến thôn, xóm ra sức vận động tuyên truyền nhân dân các xã Tây Phong, Dũng Phong, Tân Phong, Thu Phong, Bắc Phong và thị trấn Cao Phong đẩy mạnh diện tích trồng cam trên cơ sở quy hoạch vùng trồng cam của nông trường Cao Phong.
Cam Cao Phong được bày bán nhan nhản dọc quốc lộ 6 |
Bên cạnh đó, huyện đã xây dựng các mô hình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trồng cam với quy mô 40 ha/mô hình thông qua chính sách hỗ trợ những hộ đủ điều kiện tham gia 30 triệu đồng/ha, để bà con quanh vùng đến học hỏi.
Mỗi năm, Trạm bảo vệ thực vật huyện được cấp kinh phí 20 triệu đồng cho công tác dự báo; hướng dẫn bà con phòng, trị sâu bệnh và hoàn thành quy trình kỹ thuật chăm sóc cây cam theo tiêu chuẩn VietGAP.
Những hệ thống thủy lợi lớn như hồ Đắc Tra và Tân Phong được cấp kinh phí lớn để cải tạo nâng cấp đồng bộ. Nông dân chủ động đầu tư công nghệ trữ nước và tưới nhỏ giọt.
Năm 2010, diện tích cam, quýt toàn huyện đạt 557 ha, sản lượng đạt 9.000 tấn nhưng đến năm 2014, diện tích cam đã lên tới 1.200 ha.
Theo tính toán của nông dân Cao Phong, 1 ha cam cho thu nhập trung bình khoảng 600 triệu đồng. Nhờ sự chỉ đạo và thực hiện cơ cấu giống hợp lý bao gồm các loại giống chín sớm (cam CS1), giống chín chính vụ (cam Xã Đoài), giống chín muộn (cam V2, cam Canh), sản phẩm cam Cao Phong đã kéo dài được thời vụ thu hoạch từ tháng 9 đến tháng 5 năm sau, giá trị hàng hóa được nâng cao.
Giữa tháng 11 vừa qua, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH-CN) đã cấp Giấy chứng nhận Chỉ dẫn địa lý “Cao Phong” cho 4 sản phẩm cam gồm: cam Xã Đoài cao, cam Xã Đoài lùn, cam Canh, cam CS1 trồng tại thị trấn Cao Phong và 5 xã Tân Phong, Tây Phong, Bắc Phong, Thu Phong, Dũng Phong. Đây chính là “cú hích” mạnh mẽ để thương hiệu cam Cao Phong đến với người tiêu dùng.
“Tỷ phú ư? Không đếm xuể”
Chủ tịch UBND thị trấn Cao Phong Nguyễn Hồng Thủy tâm sự: “Năm ngoái, chúng tôi thống kê được 64 hộ thu nhập trên 1 tỷ đồng; 9 hộ thu nhập từ 3 – 8 tỷ. Năm nay giá cam lòng vàng (CS1) cao gấp đôi năm 2013. Tỷ phú ư, không đếm xuể. Thị trấn có hơn 100 hộ sắm ô tô con, cơ bản là của nông dân trồng cam”.
Với tổng diện tích 559 ha trồng cam, trong đó 300 ha đã cho thu hoạch, năm 2013, sản lượng cam của thị trấn đạt 14.000 tấn (khoảng 30% được tiêu thụ ngay trên quốc lộ 6 đoạn huyện Cao Phong từ hoạt động kinh doanh của 120 sạp hoa quả).
Hiện tại, TCty Hapro đã cam kết phối hợp chặt chẽ với huyện để quảng bá thương hiệu cam Cao Phong trên thị trường Hà Nội.
Ông Tiến dự định năm sau sẽ thay thế chiếc xe Fortuner mua từ năm 2010 bằng xe... |
Định hướng đến năm 2017, toàn huyện Cao Phong sẽ duy trì diện tích cam 1.500 ha (tăng 300 ha so với hiện tại), sản lượng hàng năm đạt trên 20.000 tấn, giá trị thu nhập đạt trên 500 tỷ đồng. Kiên quyết không mở rộng diện tích trồng cam Cao Phong ngoài vùng bảo hộ Chỉ dẫn địa lý.
Để làm được điều đó, cần giải quyết 3 vấn đề mấu chốt. Thứ nhất, UBND tỉnh Hòa Bình cần sớm phê duyệt quy hoạch vùng sản xuất cam của tỉnh, bởi có một số huyện đã xuất hiện khuynh hướng người người trồng cam, nhà nhà trồng cam. Nếu không kiềm chế được sẽ dễ dẫn đến dư thừa cam tươi và khó kiểm soát chất lượng.
Thứ hai, cần xây dựng một trung tâm nghiên cứu và sản xuất giống cam chất lượng cao tại Cao Phong, bởi năng lực sản xuất giống tại địa phương chỉ đáp ứng 20% lượng cây giống, một phần mua ở các cơ sở sản xuất giống có uy tín, còn lại nhập từ thị trường tự do không rõ nguồn gốc xuất xứ.
Cần đẩy mạnh xây dựng thương hiệu cam Cao Phong; bảo vệ tốt Chỉ dẫn địa lý cho cam Cao Phong để người tiêu dùng trong cả nước biết đến sản phẩm cam của địa phương có chất lượng và ATVSTP.
Thường xuyên tuyên truyền và xử lý nghiêm các hành vi trà trộn cam không rõ nguồn gốc vào huyện để làm giả thương hiệu. Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng các cơ sở chế biến nước cam, trước mắt hoàn chỉnh dây chuyền chọn, phân loại, đóng gói cam đảm bảo cung cấp cho thị trường sản phẩm tốt nhất....
Theo Minh Phúc (NNVN)
Bình luận