Chết thay dân làng
Vụ các đầu bếp dũng cảm Hà thành lập mưu tính kế đầu độc quan pháp ở thành Hà Nội được sử sách nhắc đến nhiều. Tấm ảnh bêu đầu các chí sĩ yêu nước trong rọ tre có lẽ là một trong số những bức ảnh gây ám ảnh nhất trong lịch sử chống ngoại xâm nước nhà. Tuy nhiên, thân phận các chí sĩ yêu nước ấy thì ít người biết.
Có một người khá đặc biệt, nhiều năm tìm hiểu góc khuất câu chuyện này, là anh Phạm Văn Túy, cán bộ UBND TP.Hà Nội. Tôi đoán anh là con cháu của vị chí sĩ nào đó, nhưng hóa ra không phải. Anh chỉ là người cùng làng với cụ đồ Đàm, nhân vật bị bêu đầu trong vụ Hà thành đầu độc, người làng Tạ Xá (xã Đại Thắng, Phú Xuyên, Hà Nội).
Anh Túy mở cốp xe, lấy trong chiếc cặp da màu đen, đưa cho tôi một tập tài liệu rất dày. Thật ngạc nhiên khi biết cả chục năm trời, anh nghiên cứu tài liệu, chạy đôn chạy đáo, nhằm mưu cầu Nhà nước có sự quan tâm thích đáng đến những nhân vật trong vụ Hà thành đầu độc đã chết một cách oanh liệt từ hơn 100 năm trước.
Trong tập tài liệu ấy, có cả những văn bản của người Pháp, được anh lấy từ Trung tâm lưu trữ Quốc gia, là văn bản hiếm hoi chính thống về sự kiện này.
Anh Túy xúc động: “Hồi bé, vào đình chơi, thấy có ban thờ nho nhỏ, tôi hỏi, bố tôi bảo đó là bàn thờ cụ đồ Đàm. Tôi đã được bố kể cho nghe về sự hy sinh của cụ đồ Đàm. Vì giặc Pháp đe dọa sẽ giết cả làng, nên cụ đã phải lộ diện và chịu chết. Cụ đã chết để cứu mạng dân làng chúng tôi.
Chuyện về cụ ám ảnh tôi từ bé, nên khi có điều kiện, tôi bỏ thời gian tìm hiểu kỹ hơn. Càng tìm hiểu, tôi càng thấy đau lòng. Các cụ là những chí sĩ yêu nước, là những người mang khát vọng giải phóng đất nước, nhưng vì đất nước mà vong mạng. Thế nhưng, các cụ chưa được đền đáp xứng đáng. Đến nơi tưởng niệm các cụ, cũng thật đáng buồn, bị bỏ quên đến tận năm 2016”.
Để tôi hiểu hơn về cụ đồ Đàm, người mà theo anh Túy, có đóng góp rất lớn trong vụ Hà thành đầu độc, là người cứu mạng cả làng, song bị lãng quên, anh đã đưa tôi về tận làng Tạ Xá.
Đình làng Tạ Xá cổ kính nằm dưới những tán cây um tùm, bên hồ nước rộng mênh mang. Trong đình, các cụ già đã có mặt đầy đủ tiếp đón chúng tôi.
Ban thờ cụ đồ Đàm ở góc nhỏ ngôi đình khói hương nghi ngút. Cụ Tảo, chi hội người cao tuổi thôn Tạ Xá nhấp chén trà, rồi bắt đầu câu chuyện về cụ đồ Đàm.
Cụ đồ Đàm, tên thật là Đỗ Khắc Nhã, là con một nhà nho nghèo ở làng Tạ Xá, xưa thuộc làng Lương Xá, tổng Tạ Xá, tỉnh Hà Đông. Bố mẹ cưới cho cô vợ tên Nguyện, người Vân Nội, làng bên. Lấy vợ, đẻ 2 người con, thì cụ rời làng về Hà Nội làm gì không rõ.
Sau này, dân làng mới biết, cụ tham gia tổ chức nhà nho yêu nước do cụ Đề Thám lập ra. Cụ được tổ chức phân công cùng một số cụ ở Hà Nội tổ chức vụ đầu độc các quan chức cao cấp người Pháp. Cụ nhận nhiệm vụ cắm cờ và chỉ huy một cánh quân tiến vào Hà Nội.
Kế hoạch diễn ra như đã phân công, cụ đồ Đàm dẫn quân ém ở khu vực cột cờ Hà Nội, chờ tín hiệu của cụ đội Nhân. Theo quy định, nếu đến giờ, có tín hiệu thì nổi dậy tấn công, còn không có tín hiệu thì tự động giải tán. Tuy nhiên, khi đến giờ nghe tiếng báo động, biết kế hoạch đã bại lộ, cụ giải tán quân.
Gặp một người làng kéo xe tay, cụ liền nhảy lên xe đi trốn. Chỉ biết rằng, cụ đã trốn về khu bãi sậy thuộc đất Hưng Yên, vùng Kim Động. Hiện vẫn chưa rõ ở làng nào, xã nào.
Thân thế bại lộ, thực dân Pháp lùng sục ráo riết khắp vùng. Thời gian sau, thực dân Pháp đưa giấy về tỉnh Hà Đông. Tỉnh xức giấy về làng. Nội dung tờ thông báo có nội dung sẽ chặt đầu toàn bộ dân cư hai làng, là làng Tạ Xá quê cụ Đàm và làng Vân Nội quê vợ cụ, nếu cụ Đàm không ra trình diện chính quyền Pháp.
Cụ Nguyễn Văn Hát, ở thôn cạnh, đi đò qua sông Hồng, sang Hưng Yên buôn bán, đã gặp được cụ Đàm, cải trang thành ông lão râu tóc bạc phơ. Cụ Hát nhận ra cụ đồ Đàm qua dáng người, nốt son lớn ở tay và những ngón tay búp măng đặc trưng của thầy đồ ngày đó.
Cụ Hát thuật lại chuyện dân hai làng lo lắng ngày đêm mất ngủ, vì sắp bị thực dân Pháp xử tử. Cụ đồ Đàm bảo cụ Hát cứ về làng, cụ sẽ ra trình diện chính quyền.
Cụ Hát về làng, kể lại chuyện gặp cụ đồ Đàm, tuy nhiên, không biết cụ Đàm trú ngụ ở đâu. Quan chức phong kiến muốn mời cụ Đàm về, nhưng không dám sang, sợ cụ trốn mất, nên cử cụ Hát sang Hưng Yên gặp gỡ.
Gặp lại ở điểm hẹn, cụ đồ Đàm bảo cụ Hát: “Ông cứ về nói với quan Pháp là tôi sẽ ra trình diện chính quyền. Tuy nhiên, tuyệt đối ông không được tiết lộ nơi tôi ở, kẻo giặc sát hại những người cưu mang tôi”.
Vài ngày sau, cụ đồ Đàm về thật. Dân làng gặp cụ thì buồn thảm, khóc lóc ghê gớm. Cha cụ đồ Đàm cùng nhân dân làm lễ tế sống suốt 3 ngày. Hội đồng môn, học trò cũng mổ lợn làm lễ tế sống rất to, bởi ai cũng biết rằng, cụ sẽ bị chặt đầu.
Xong lễ tế sống, dân làng đưa cụ lên nhà lao Hà Đông, chỗ chợ Hà Đông bây giờ. Lấy khẩu cung xong, chúng đưa cụ về nhà giam Hỏa Lò. 6 ngày sau, chúng đưa cụ ra pháp trường Bãi Bàng (giờ là chỗ chợ Bưởi) xử tử. Hôm chặt đầu cụ, dân làng, cụ Nguyện (vợ cụ đồ Đàm) cũng có mặt. Cụ đồ Đàm cởi chiếc khăn the đưa cho vợ, dặn rằng, dùng chiếc khăn the may áo cho con trai.
Chặt đầu xong, giặc Pháp bêu đầu cụ ở chợ, xác quẳng xuống hố chôn tập thể những người bị bắt trong vụ Hà thành đầu độc.
Cụ Nguyễn Văn Quế, người làng Tạ Xá kể: “Ông nội tôi là người chứng kiến tận mắt cuộc hành quyết cụ đồ Đàm. Ông tôi kể rằng, cụ đồ Đàm có vóc dáng thư sinh, tóc dài búi sau lưng. Vì búi tóc to quá, nên đồ tể chặt mấy lần mới đứt đầu cụ, nhìn thương tâm lắm. Lúc ra pháp trường, cụ đồ Đàm không hề sợ hãi, mà ngẩng cao đầu cười nhạo chúng.
Ngày đó, giặc Pháp giấu thông tin ghê lắm. Chúng chỉ thông cáo rằng đây là hành động bạo loạn của một nhóm người, nhằm thu nhỏ sự kiện, tránh gây bức xúc, manh động trên diện rộng.
Tuy nhiên, thực tế, đây là sự kiện chính trong âm mưu cướp chính quyền của cụ Đề Thám. Nếu vụ đầu độc thành công, cụ Đề Thám sẽ đưa quân về đánh chiếm Hà Nội, có thể sẽ thay đổi cục diện khi đó, mà không chừng sẽ giải phóng được dân tộc. Vì vậy, tôi đánh giá sự kiện Hà thành đầu độc là sự kiện lớn, cần được lịch sử đánh giá, ghi nhận xứng đáng”.
Lễ tế sống bi thương
Anh Phạm Văn Túy thu thập cả những tài liệu chính thống nằm phủ bụi trong trung tâm lưu trữ quốc gia, cả những thông tin từ người thân của các chí sĩ bị chặt đầu, nên anh nắm rất rõ sự kiện đặc biệt này.
Theo đó, vụ Hà thành đầu độc nổ ra vào đêm 27/6/1908, ngay trong doanh trại quân đội Pháp ở thành Hà Nội.
Trước thời điểm đó, các phong trào yêu nước của Phan Bội Châu phát triển mạnh. Hoàng Hoa Thám cũng tổ chức nhiều cuộc nổi dậy tấn công quân đội Pháp và được dân chúng hưởng ứng mạnh mẽ.
Tại quán cơm số 20 Cửa Nam, Hà Nội, là nơi các chí sĩ yêu nước cùng chí hướng tụ tập, giác ngộ nhau. Các ông Đỗ Khắc Nhã (đồ Đàm), Nguyễn Văn Hiên (đầu bếp Hai Hiên), thầy lang Phúc… thường xuyên tuyên truyền giác ngộ những binh lính, cai đội người Việt làm việc cho quân đội Pháp.
Thời điểm đó, những ông Đặng Đình Nhân (đội Nhân), Nguyễn Văn Nga, Nguyễn Trị Bình, Dương Bê… là những cai đội, binh lính người Việt, rất phẫn uất với thực dân Pháp vì bị phân biệt đối xử với lính Pháp. Họ bất mãn vì bị sai đi đánh lại người Việt.
Tại chùa Bạch Mã, phố Hàng Buồm, ông Nguyễn Trị Bình (tức Đội Bình), đã tụ tập 200 người đồng chí hướng, để tổ chức “Hội nghị Diên Hồng”.
Ông Bình nói: “Hôm nay, chúng ta bàn với nhau một việc đặc biệt hệ trọng. Đó là việc lấy lại đất nước Việt Nam, khôi phục mọi quyền lợi của chúng ta. Nếu mưu đồ không thành công, chúng ta phải đeo đuổi nhiệm vụ này tới chết. Quyết không lùi bước trước sự hi sinh nào để cứu lấy Tổ quốc chúng ta. Các đồng bào có đồng ý với tôi về vấn đề này không? Có tán thành kế hoạch của tôi không?”.
Mọi người có mặt đều tán thành kế hoạch đánh chiếm đầu não cai trị thực dân. Nhiều kế hoạch được đưa ra bàn bạc. Đầu bếp Hai Hiên đã đề xuất sử dụng phương án đầu độc tướng lĩnh, binh sĩ Pháp, được mọi người ủng hộ.
Theo đó, phương án đầu độc hiệu quả, an toàn là sử dụng loại cà có chất độc. Chất độc từ loại cà này tuy không giết được người, nhưng làm mất sức chiến đấu, sẽ là cơ hội tốt để nghĩa quân đánh chiếm Hà Nội.
Kế hoạch được chốt lại như sau: Khi quân Pháp bị đầu độc, các nhóm cai đội, binh lính trong hàng ngũ Pháp được giác ngộ sẽ chiếm kho vũ khí, bắn pháo hiệu. Các toán quân từ ngoại thành ém sẵn thấy hiệu lệnh sẽ ập vào thành.
Đội Nhân (Đặng Đình Nhân) được phân công nhiệm vụ đánh chiếm phủ toàn quyền Đông Dương, đội Bình tấn công Bộ tham mưu Pháp và đội Cốc (Dương Bê) đánh vào Tòa thống sứ Bắc Kỳ.
Tuy nhiên, kế hoạch mấy lần bị hoãn lại vào năm 1907, vì thời cơ chưa thuận lợi, vũ khí chưa có đủ. Vì thế, mật thám Pháp đã đánh hơi được thông tin. Mặc dù không thu thập được thông tin chính xác, song chúng cẩn thận đề phòng.
Tối 27/6/1908, tổ chức thực hiện kế hoạch. Nhóm đầu bếp do Hai Hiên cầm đầu đã bỏ chất độc chiết xuất từ cà vào thức ăn. Khoảng 200 binh lính, sĩ quan Pháp đã trúng độc. Tuy nhiên, lượng độc dược chưa đủ mạnh, nên chỉ bị đau bụng, mất sức chiến đấu, số ít ngất xỉu.
Vào thời điểm đó, một lính công binh pháo thủ số 9 của quân đội Pháp, được các chí sĩ yêu nước kết nạp làm tay trong đã đi xưng tội với linh mục ở nhà thờ.
Tin lộ ra, ngay lập tức, quân đội Pháp xiết vòng vây, tước hết vũ khí, bắt giam người Việt phục vụ trong quân đội Pháp để điều tra. Nhóm đầu bếp người bị bắt, người tìm đường tẩu thoát, nên không kịp cướp kho vũ khí và nổ pháo hiệu báo các nhóm nghĩa quân ém ở ngoại thành. Đến giờ hẹn, không thấy pháo hiệu, các toán nghĩa quân tự giải tán.
Mặc dù chưa bắt hết những người nổi dậy, nhưng 9 ngày sau vụ Hà thành đầu độc, thực dân Pháp đã tuyên xử chém 3 người, là đội Nhân, đội Bình và Dương Bê. Đầu những chí sĩ yêu nước được đặt vào rọ tre, treo ở chợ, đầu làng, để “răn đe”, nhằm làm nhụt chí những người yêu nước.
Theo “Báo cáo tổng hợp 7/1908” của E.Duvillier, quan công sứ tỉnh Hà Đông, có 13 người bị xử tử trong vụ Hà thành đầu độc. Trong số đó, có 2 người, gồm thầy giáo Đỗ Khắc Nhã, tức đồ Đàm và đầu bếp Nguyễn Văn Hiên, tức Hai Hiên.
Báo cáo cũng nói rõ nghề nghiệp của 2 vị này, là nhà giáo và đầu bếp, nhưng lại đóng vai trò quan trọng. Đồ Đàm tụ tập các chí sĩ yêu nước, cầm đầu một cách quân và Hai Hiên chỉ đạo việc đầu độc và cướp kho vũ khí. Chính vì thế, quan công sứ J.Bosc đã ngồi tòa và tuyên ngay tội xử tử.
Điều đáng nói, cả hai chí sĩ này đều thể hiện khí khái trượng nghĩa của người yêu nước thương dân. Cụ đồ Đàm không muốn dân làng bị liên lụy, nên đã tự ra hàng chịu chết. Cụ Hai Hiên chỉ là đầu bếp, nhưng cũng không muốn để gia đình liên lụy.
Cụ Hai Hiên cùng với đồ Đàm đã tẩu thoát trước khi quân Pháp vây hãm, bắt bớ. Truy lùng không được, quan công sứ Hà Đông đã mượn luật của triều đình An Nam, khép tội tạo phản, là trọng tội, phải tru di tam tộc.
Cụ Hai Hiên quê ở xã Đức Giang (Hoài Đức, Hà Nội bây giờ). Lúc vụ Hà thành đầu độc xảy ra, đại gia đình vẫn sống ở quê. Giặc Pháp bắt bớ, nhốt hết vợ con, người thân đủ 3 đời.
Khi đó, đang trốn ở nơi khác, nghe tin, cụ Hai Hiên đã tìm về làng, chấp nhận để cho quân Pháp bắt.
Dân làng, họ tộc gặp cụ, khóc lóc thảm thiết, có ý can ngăn, nhưng ông đã quyết, không thay đổi ý định. Dân làng đã mổ lợn, làm lễ tế sống người đầu bếp dũng cảm.
Trong ký ức của các cụ truyền lại, buổi lễ tế sống diễn ra rất thảm thương, tiếng khóc ai oán vang dậy trời đất, thế nhưng, cụ Hai Hiên không rơi một giọt nước mắt. Thi thoảng cụ chỉ thở vắn than dài, tiếc rằng chí lớn không thành, không diệt được kẻ thù để giải phóng đất nước.
Tế sống xong, đầu bếp Hai Hiên bình thản ra pháp trường chịu tội chặt đầu cùng với cụ đồ Đàm và nhiều người khác. Mặc dù đã bị xử tử, nhưng vợ cụ vẫn bị giặc Pháp tra tấn đến chết trong tù. Anh em ruột cũng bị lưu đày. Người thân phải bỏ trốn khắp ngả để tránh sự truy bắt, trả thù.
Theo tài liệu từ Thống sứ Bắc Kỳ, có 13 người bị chặt đầu liên quan đến sự kiện Hà thành đầu độc. 5 người bị tuyên tử hình vắng mặt, 4 người án chung thân, 5 người chịu án 20 năm tù khổ sai… Nguồn tài liệu lịch sử Việt Nam thì khẳng định có 16 người đã bị xử chém. Sau vụ Hà thành đầu độc, thực dân Pháp đã thẳng tay đàn áp phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, tổ chức nhiều cuộc tấn công tiêu diệt nghĩa quân Hoàng Hoa Thám. Đã có hàng trăm người chịu án chặt đầu, lưu đày biệt xứ.
Bình luận