Khi còn sống, ông bà nội tôi lúc nào cũng đau đáu một điều: làm sao tìm được mộ bác tôi hy sinh sau một năm đi B. Ngoài cái giấy báo tử ghi chung chung là hy sinh ở chiến trường miền Nam, suốt mấy chục năm gia đình tôi chẳng có thêm thông tin gì về bác.
So với hai em là bố và chú, bác tôi vất vả nhất. Nhà nghèo, lại thời chiến, học hết lớp 3, bác phải bỏ học đi chăn trâu, cắt cỏ, cáng đáng mọi việc đồng áng với ông bà tôi. Mười lăm tuổi, bác đã được gọi vào làm công nhân vận tải thuộc đoàn vận tải đường sông bằng thuyền nan từ Hải Phòng vào Thanh Hóa.
Hơn một năm sau, bác được về nhà để chuẩn bị đi bộ đội vào Nam chiến đấu. Mười bảy tuổi, bác nhập ngũ. Ở cái tuổi này bây giờ, tôi hình dung đến nhiều bạn trẻ học lớp 11 được trang bị những thiết bị, những thứ đồ chơi công nghệ tối tân, xe đời mới, được người lớn lo cho đi du học, lo đến cả chỗ chơi và lo nốt cho cả tương lai.
Còn bác tôi lúc ấy, theo lời kể của bố tôi, chú tôi, bác gầy gò, nhỏ thó, hiền như con gái. Chú tôi vẫn nhớ rõ những hình ảnh ngày bác lên đường nhập ngũ. Sáng hôm ấy trời lạnh sắt se, ông nội và bố tôi phải đi làm đồng sớm vì đương vụ cày cấy. Ở nhà chỉ còn ba mẹ con. Bác tôi khoác chiếc ba lô một bên vai, chào mẹ rồi bươn bả lên địa điểm tập kết ở ủy ban xã.
Bà tôi không dám tiễn con, vừa giã gạo ở đầu hồi nhà vừa khóc. Chú tôi biết anh đi xa cũng lao theo khóc giữ bác lại. Bác tôi xoa đầu em, dúi vào tay chú tôi chục đồng xu có lỗ thỉnh thoảng bác vẫn đánh đáo lúc rảnh rỗi rồi đi như chạy về phía ủy ban xã… Bác đi vào nơi bom đạn sinh tử mà chẳng có người thân tiễn đưa.
Hễ nhớ đến câu chuyện chú kể, mắt tôi cứ cay xè. Thương bác, thương những chàng trai hồi đó chắc chưa lớn bằng đứa trẻ học lớp 7 bây giờ, chưa biết gì đến cuộc sống ngoài luỹ tre làng, ngày ngày chăm chỉ chăn trâu cắt cỏ, quanh quẩn với công việc nhà nông, theo tiếng gọi của Tổ quốc khoác ba lô, cây súng lên đường đi vào những chiến trường ác liệt, đẫm máu.
Bác đi rồi mãi mãi không về nữa...
Sau khi nhận được giấy báo tử của bác không lâu, bố tôi và chú tôi lần lượt đi bộ đội. Sau giải phóng, bố tôi đã nhờ những người bạn chiến đấu tìm manh mối nơi bác tôi nằm lại. Hễ cứ có ai mách địa chỉ là ông lại tìm đến để hỏi thăm, nhưng nơi bác tôi nằm lại vẫn cứ bặt vô âm tín.
Bà tôi, rồi ông tôi lần lượt qua đời. Ước nguyện lớn nhất đời của ông bà là tìm được hài cốt của con đưa về quê hương đất tổ đã không thành. Nỗi đau của ông bà tôi truyền đến đời con rồi truyền tiếp đến đời cháu, là chúng tôi.
Chú em tôi công tác bên ngành dầu khí đã xin nghỉ một thời gian cất công đi tìm bác. Chú em tôi đã đến hầu hết các nghĩa trang ở miền Đông Nam Bộ, hỏi thăm cặn kẽ từng người quản trang, nhưng đến đâu cũng chỉ gặp những cái lắc đầu và những lời động viên cảm thông.
Cho đến một ngày giữa năm 2014, chú em tôi đến nơi tại Bình Phước mà ông Lê Đức Thọ viết: Nghe chim tu hú gọi/Rừng Lộc Ninh sáng rồi/Suốt đêm qua không ngủ/Nằm đếm tiếng mưa rơi… (Bài thơ ‘Mưa rơi’ - ông Lê Đức Thọ viết trong thời điểm chuẩn bị chuẩn bị cho trận đánh cuối cùng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử) và thấy tên bác tôi cùng địa chỉ quê quán trên tấm bia trong Nhà tưởng niệm các liệt sĩ quân y, dân y và thương, bệnh binh miền Đông Nam Bộ.
Từ manh mối của người quản lý nhà bia, chú em tôi tìm đến một cán bộ từng công tác ở bệnh viện dã chiến K50 của ta ở giáp giới với Campuchia. Ông y sỹ cho biết số hài cốt các liệt sỹ hy sinh tại bệnh viện này, trong đó có bác tôi, đã được quy tập về nghĩa trang liệt sỹ Tân Biên, Tây Ninh. Tuy nhiên, gần 50 bộ hài cốt liệt sỹ không xác định được danh tính. Bác tôi nằm trong số 50 liệt sỹ ấy.
Dịp 27/7 năm 2015 là lần đầu tiên bố và chú tôi được đến nơi bác nằm lại. Chúng tôi đặt hoa và thắp nhang lên gần 50 ngôi mộ liệt sỹ vô danh. Biết tìm bác ở đâu trong số gần 50 ngôi mộ liệt sỹ không xác định được danh tính này? Niềm an ủi lớn nhất là chúng tôi đã tìm thấy nơi bác yên nghỉ và ước mơ lớn nhất của ông bà tôi đã phần nào được thực hiện.
Nhưng bao giờ mới tìm thấy bác giữa những ngôi mộ các anh hùng liệt sỹ vô danh?
Với tôi, bác luôn trẻ mãi ở tuổi mười tám đẹp nhất của cuộc đời. Bác, cũng giống như những chàng trai hy sinh khi tuổi vừa mười tám đôi mươi đang nằm bên cạnh đến giờ vẫn chưa xác định được danh tính kia sẽ bất tử như “những người lính trẻ không trở về từ chiến trường đẫm máu” mà “hóa sếu trắng bay cao” trong bài thơ bất hủ về người lính “Đàn sếu” của Rasul Gamzatov.
Những người lính không về sau trận đánh
Chiến trường xưa đẫm máu bao ngày
Tưởng như họ không nằm trong đất lạnh
Mà hóa thành muôn vạn sếu trắng bay…
…Hôm nay đây, trong ánh chiều chạng vạng
Tôi thấy sếu bay trong lớp sương mù
Thành đội hình âm thầm như năm cũ
Những con người dàn trận bước nhẹ chân…
(Thuỵ Anh dịch)
Hãy chia sẻ với VTC News những câu chuyện cảm động của gia đình bạn, hay những câu chuyện bạn biết về các anh hùng thương binh, liệt sĩ tại địa chỉ email [email protected].
Bình luận