Tạp chí hàng đầu Australia chuyên về tài chính, kinh tế intheblack.com đã có bài đánh giá về nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh đại dịch COVID-19 tiếp tục lan rộng ở trong nước, cũng như trên thế giới, ảnh hưởng nghiêm trọng tới chuỗi cung ứng toàn cầu.
Theo tạp chí này, trong khi nhiều doanh nghiệp phải chống chọi với ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, doanh nhân Jewel Nguyễn có trụ sở công ty tại TP.HCM đang bận rộn với các đơn đặt hàng.
Trong năm qua, doanh nghiệp Viego Global của cô đã đàm phán với hàng trăm nhà phân phối, đại lý và môi giới để cung cấp các sản phẩm như càphê, dừa, dệt may và dược phẩm. Cô đã thực hiện những đơn hàng từ các thị trường bao gồm Mỹ, Saudi Arabia, Iran, Hàn Quốc và khu vực Caribe. Đây là một khởi đầu không tồi cho một công ty khởi nghiệp.
“Tất cả đều là khách hàng mới và chúng tôi chưa từng biết đến họ trước đây”, Jewel, người sáng lập và Giám đốc điều hành của công ty, người đóng góp vào thành công của công ty, một phần nhờ tận dụng thị trường số để tiếp cận các khách hàng mới.
Thành công nhanh chóng của đội ngũ Viego Global phản ánh niềm tin kinh doanh tại Việt Nam, quốc gia Đông Nam Á có tốc độ phá triển vượt qua hầu hết các nước khác trong thời kỳ đại dịch.
Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng 2,9% vào năm 2020, cao hơn cả Trung Quốc, nhờ nền tảng sản xuất đang phát triển và nhu cầu nội địa mạnh mẽ. Viện Lowy, một tổ chức tư vấn có trụ sở tại Sydney, đã thu thập dữ liệu để xếp hạng phản ứng trước đại dịch của gần 100 thị trường, xếp New Zealand ở vị trí hàng đầu, với Việt Nam và Đài Loan ở vị trí thứ hai và thứ ba.
Jewel cho biết những mặt tích cực như vậy cũng khuyến khích các sinh viên tốt nghiệp được đào tạo chuyên sâu, các chuyên gia và Việt kiều trở về nước.
Cô nói: “Trước đây họ thường đi du học và ở lại nước ngoài làm việc. Giờ đây, theo làn sóng mới, họ sẽ quay trở lại Việt Nam và đóng góp cho đất nước”.
Kỳ tích kinh tế
Với việc các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ và logistics nói riêng đang phục hồi mạnh mẽ sau tác động của đại dịch COVID-19, Ngân hàng Thế giới (WB) đã ước tính tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ 6-6,5% vào năm 2021. Tuy nhiên, sự gia tăng gần đây về số ca nhiễm COVID-19 có thể ảnh hưởng đến dự báo này.
Ông Warrick Cleine, Giám đốc điều hành KPMG tại Việt Nam, cho biết: “Chúng tôi không nghĩ rằng con số này không đáng tin cậy”.
Thứ nhất, trong suốt năm 2020 và đầu năm 2021, Việt Nam đã kiểm soát biên giới và truy vết tốt hơn hầu hết các quốc gia, bao gồm cả Indonesia và Philippines, những quốc gia có nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi đại dịch.
Thứ hai, Việt Nam đang hưởng lợi sau hơn hai thập kỷ với tư cách là một đối tác quan trọng trong thương mại và sản xuất toàn cầu.
Thứ ba, Việt Nam ít phụ thuộc vào du lịch hơn các nước láng giềng. Trước khi số ca nhiễm COVID-19 tăng lên gần đây, Việt Nam không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự sụt giảm du khách quốc tế, không giống như một số nước láng giềng.
Cuối cùng, dân số trẻ của Việt Nam đang thúc đẩy một nền kinh tế nội địa mạnh mẽ, được coi như một vùng đệm chống lại sự suy thoái toàn cầu. Cleine nói: “Mọi người đều trẻ và kiếm được việc làm trong một lực lượng lao động cực kỳ hiệu quả.”
Một yếu tố khác có lợi cho Việt Nam là căng thẳng thương mại Mỹ-Trung, đã giúp Việt Nam thu hút một lượng lớn các nhà sản xuất nước ngoài. Xu hướng này bắt đầu từ hơn một thập kỷ trước, khi các nhà máy may mặc và giày dép bắt đầu tìm kiếm thị trường mới thay thế Trung Quốc do chi phí tăng cao.
Giờ đây, với việc những gã khổng lồ công nghệ như Samsung và Apple dẫn đầu xu thế này và các hiệp định thương mại tự do mới được ký kết, Việt Nam đang hy vọng trở thành một trung tâm quan trọng cho sản xuất công nghệ cao.
Ông Michael Kokalari, nhà kinh tế trưởng của công ty đầu tư VinaCapital, cho biết trước COVID-19, nhiều công ty thương mại quốc tế nghĩ rằng họ có một chuỗi cung ứng toàn cầu an toàn, cho đến khi đại dịch làm nổi bật nguy cơ phụ thuộc quá nhiều vào một số nhà cung cấp chính.
Sở thích của người tiêu dùng ở Mỹ cũng đang bắt đầu thay đổi khỏi các sản phẩm do Trung Quốc sản xuất. “Sự kết hợp của hai điều đó đã thúc đẩy nhanh hơn động lực thay đổi địa điểm sản xuất”, ông Kokalari nhận định.
Đặc biệt, Việt Nam đang được hưởng lợi từ nhu cầu tăng cao đối với loại hàng hóa “ở nhà phòng dịch” tại Mỹ và châu Âu trong thời gian phong tỏa do COVID-19.
Ông Kokalari không thấy bất kỳ mối đe dọa tức thời nào đối với năng lực sản xuất của Việt Nam từ các nước láng giềng Đông Nam Á. Chẳng hạn, tiền lương ở Việt Nam thấp hơn nhiều so với Thái Lan. Trong khi đó, ách tắc về logistics là một vấn đề đối với Indonesia, chi phí cao và lực lượng lao động già hóa là những thách thức mà Malaysia phải đối mặt. "Và người Việt Nam làm việc điên cuồng!" ông Kokalari chia sẻ.
Kokalari cho biết Việt Nam cũng có thể tiếp tục thu hút lao động giá rẻ từ lĩnh vực nông nghiệp, vốn vẫn chiếm khoảng 45% tổng số lao động. “Chỉ cần số lượng người sẵn sàng chuyển từ trang trại đến nhà máy trong vòng 10 năm tới có nghĩa là Việt Nam có rất nhiều công nhân có học, với tỷ lệ phổ cập giáo dục lên tới 95% của cả nước”.
Cơ hội thị trường cho các nhà xuất khẩu
Tầng lớp trung lưu đang gia tăng nhanh chóng cùng với thu nhập ngày càng tăng đang thúc đẩy tiêu dùng nội địa ở Việt Nam.
Ủy ban Thương mại và Đầu tư Australia (Austrade) đánh giá đây là cơ hội cho các nhà xuất khẩu Australia trong nhiều lĩnh vực đa dạng như năng lượng, sức khỏe và thực phẩm và đồ uống cao cấp. Tuy nhiên, Shannon Leahy, Tham tán thương mại Austrade tại Hà Nội, thừa nhận rằng Việt Nam có thể là một thị trường phức tạp để định hướng và việc có cố vấn về thị trường địa phương cùng kinh nghiệm văn hóa là điều rất quan trọng.
Ông Leahy cho biết: “Cho dù đó là nhà nhập khẩu hay nhà phân phối, đối tác kinh doanh hay chính quyền cấp tỉnh, địa phương thì các mối quan hệ bền vững sẽ giúp bạn giảm thiểu rủi ro và mở ra cơ hội”.
Leahy coi thị trường tiêu dùng của Việt Nam là một điểm sáng cho các nhà đầu tư, lưu ý rằng quốc gia này có một trong những thị trường thương mại điện tử phát triển nhanh nhất trong khu vực.
[Doanh nghiệp Mỹ tiếp tục quan tâm đầu tư vào thị trường Việt Nam]
“Đại dịch đã thúc đẩy xu hướng gián đoạn công nghệ ở Việt Nam, tạo cơ hội cho các công ty công nghệ điện tử và công nghệ y tế của Australia”.
Tương tự, các ngân hàng của Việt Nam đang chào đón những đối tác công nghệ tài chính (fintech) mới nổi. Trong khi trong lĩnh vực y tế, mạng lưới bệnh viện tư nhân trên toàn quốc đang có bước nhảy vọt về công nghệ, với việc chuyển quản lý dữ liệu bằng giấy tờ lên điện toán đám mây.
“Trong khi ngành du lịch của Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch, thị trường tiêu dùng của Việt Nam vẫn mạnh mẽ, tạo cơ hội cho ngành nông sản Australia. Chúng tôi đang nhìn thấy cơ hội phát triển mạnh mẽ trong hầu hết các phân khúc thực phẩm cao cấp, bao gồm thịt, sữa, các loại hạt và ngày càng tăng, về thủy sản”, ông Leahychia sẻ.
Lời kêu gọi đầu tư
Một báo cáo của KPMG có tiêu đề “Đầu tư vào Việt Nam: Vẽ lại chân trời, 2021 và xa hơn”, cho biết năm 2017, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng góp 40% GDP của Việt Nam. Năm 2019, tổng vốn đăng ký là 17 tỷ USD, trong đó lĩnh vực sản xuất chiếm 72%.
Chính phủ Việt Nam đã và đang ban hành các luật và quy định thuận lợi nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư và kinh doanh. Cleine cho biết điều này có nghĩa là “bất cứ hoạt động liên quan đến người tiêu dùng Việt Nam” đều là cơ hội đầu tư, cùng với các lĩnh vực như phát triển bất động sản và dịch vụ tài chính.
Với thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam, ông tin rằng đầu tư vào các khu công nghiệp và hậu cần sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. “Các lĩnh vực này thực sự rất nóng và cả hai đều không giảm giá trị do khủng hoảng COVID-19”.
Các ngân hàng của Việt Nam đang đón nhận những công ty fintech mới nổi, và trong lĩnh vực y tế, mạng lưới bệnh viện tư nhân đang là bước nhảy vọt về công nghệ.
Theo bà Cleine, trong khi cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump đẩy nhanh việc dịch chuyển sản xuất sang Việt Nam như một phần trong lập trường cứng rắn của ông với Trung Quốc, thì động lực này không có dấu hiệu chậm lại dưới thời chính quyền Biden.
Leahy tin rằng năng lượng có tiềm năng trở thành làn sóng đầu tư quốc tế quy mô lớn tiếp theo. Việt Nam cần hơn 150 tỷ USD cho cơ sở hạ tầng năng lượng trong thập kỷ tới để đáp ứng nhu cầu điện năng ngày càng tăng của mình.
“Khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) sẽ sớm trở thành nguồn năng lượng quan trọng trong thị trường năng lượng của Việt Nam, mở ra cơ hội đầu tư và xuất khẩu lớn cho các công ty LNG của Australia”, Leahy nói.
Nhìn về tương lai
Khi các nhà phân tích tranh luận về việc liệu chuỗi tăng trưởng vàng của Việt Nam có thể kéo dài hay không, Kokalari thu hút sự tin tưởng từ các phân tích nhân khẩu học và đầu tư của Nhật Bản và Hàn Quốc. Lập luận rằng những người lao động làm việc năng suất nhất ở độ tuổi từ 45 đến 50, ông lưu ý rằng Nhật Bản đã đạt được mức năng suất cao trong giai đoạn 1990-1991.
Ông nói: Sau đó, số lượng người thực sự có năng suất đã giảm mạnh. Ở Hàn Quốc, đỉnh điểm xảy ra vào khoảng năm 2015.
Trước tình hình tăng trưởng thấp hơn và tình trạng thiếu lao động sản xuất, hai cường quốc châu Á đã đổ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nhà máy sản xuất của Việt Nam để tìm kiếm cơ hội mới.
“Đặc biệt, hai quốc gia này có nhu cầu cơ cấu đầu tư ra bên ngoài quốc gia của họ vào những thị trường như Việt Nam - và điều đó sẽ không biến mất trong nhiều năm”, Kokalari nói.
Mặc dù Viego Global đang phải đối mặt với những thách thức liên quan đến đại dịch như chi phí vận chuyển cao và thời gian giao hàng lâu, Jewel vẫn tự tin vào sự phát triển và tin rằng thương mại điện tử là tấm vé thành công của cô.
Vào tháng 3, cô được chọn tham gia vào Chương trình đào tạo của Alibaba’s Netosystemur, qua đó cô có thể học hỏi trực tiếp từ gã khổng lồ thương mại điện tử của Trung Quốc. Cô ấy muốn số hóa nhiều hơn hoạt động thương mại xuyên biên giới và hỗ trợ các nhà sản xuất bán hàng và tiếp thị.
“Chúng tôi muốn trở thành công ty số một về cung cấp nguồn cung ứng kỹ thuật số tại Việt Nam”.
Tiềm lực con người tiềm tàng
Nguyễn Cát Thảo, một luật sư người Australia gốc Việt hiện là Chủ tịch hội đồng quản trị và đồng sáng lập của Đối thoại Lãnh đạo Australia-Việt cho biết: “Người Việt Nam rất mang tính tập thể. Và tôi cũng nghĩ lịch sử của Việt Nam cho thấy họ là những người vô cùng kiên cường, có tư duy cầu tiến và giàu nghị lực”.
Sống ở Việt Nam được 14 năm, Cát Thảo nhận thấy tầm ảnh hưởng của Australia tại Việt Nam đang dần sụt giảm, kể cả về lĩnh vực tài trợ thương mại. Bà lo ngại rằng Australia đang bỏ lỡ cách tiếp cận thương mại tích cực của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, cùng những nước khác.
“Tôi nghĩ rằng sự bùng nổ tài nguyên của Australia, sự tăng trưởng không ngừng và sự phụ thuộc của chúng tôi vào điều đó đã khiến chúng tôi tự mãn. Chúng tôi không thực sự bị buộc phải tìm kiếm thị trường mới và đổi mới", luật sư Cát Thảo cho hay.
Bà Cát Thảo cho biết việc tập trung vào các thị trường truyền thống như Mỹ, Anh, Trung Quốc đại lục, Singapore và Hong Kong đồng nghĩa Australia có thể đang bỏ qua các cơ hội ở Việt Nam. Vì vậy, Australia cần suy tính lại về triển vọng của mình tại Việt Nam và nên nắm bắt cơ hội một cách thông minh.
Bình luận