Chiều 10/3, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét dự thảo Nghị quyết về thời giờ làm thêm trong 1 tháng và trong 1 năm của người lao động.
Về nâng giới hạn về thời giờ làm thêm của người lao động trong tháng, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thuý Anh cho biết, đa số ý kiến Thường trực Ủy ban Xã hội cũng như các ý kiến tham gia thẩm tra của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban đều cho rằng đề xuất nâng giới hạn về thời giờ làm thêm trong tháng từ không quá 40 giờ lên không quá 72 giờ là chưa có đầy đủ cơ sở khoa học.
"Việc tăng này là quá cao, tăng 180% so với quy định tại Bộ luật Lao động năm 2019 và tăng 240% so với Bộ luật Lao động năm 2012 (quy định 30 giờ), tương ứng với 9 ngày làm việc bình thường.
Việc tăng thời giờ làm việc sẽ có ảnh hưởng nhiều tới sức khỏe, an toàn lao động của người lao động, ảnh hưởng đến thời gian chăm sóc con cái, gia đình, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh. Người lao động không đủ thời gian nghỉ ngơi, phục hồi sức khỏe, tái tạo sức lao động và việc tăng này đi ngược với xu hướng tiến bộ, phát triển khoa học, công nghệ, tăng lương, giảm giờ làm", bà Thuý Anh nói.
Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thuý Anh cho biết, việc áp dụng mức trần 300 giờ cho tất cả các ngành, nghề, công việc là quá rộng, cơ quan soạn thảo chưa cung cấp đầy đủ cơ sở khoa học, thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế về tăng thời giờ làm thêm do tác động của dịch COVID-19.
Ngoài ra, bà cho rằng cơ quan soạn thảo chưa đánh giá tác động đầy đủ của việc nâng mức trần này đến sức khỏe, an toàn lao động của người lao động, đặc biệt là phụ nữ, người khuyết tật, người cao tuổi, người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi và những người làm các nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.
Thường trực Ủy ban Xã hội đề nghị chỉ nâng mức trần thời gian làm thêm theo tháng lên 150%, tương ứng từ 40 giờ lên 60 giờ, và chỉ áp dụng đối với đối tượng đã được quy định mức trần làm thêm trong năm là 300 giờ.
Đồng thời, Thường trực Ủy ban Xã hội đề nghị Chính phủ cần nghiên cứu, quy định về việc giới hạn số tháng liên tục được áp dụng mức trần tối đa (2 hoặc 3 tháng).
Trước đó, trình bày tờ trình của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung cho biết, Chính phủ đề nghị nâng giới hạn số giờ làm thêm trong 1 tháng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 107 Bộ luật Lao động khi người sử dụng lao động thỏa thuận với người lao động về việc làm thêm giờ từ không quá 40 giờ lên không quá 72 giờ và tổng số giờ làm thêm của người lao động không quá 300 giờ trong 1 năm mà không bị giới hạn nhóm ngành, nghề, công việc hoặc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 107 Bộ luật Lao động.
Các quy định giới hạn giờ làm thêm theo ngày và việc nghỉ ngơi (nghỉ trong giờ làm việc, nghỉ chuyển ca...), tiền lương tuân thủ theo Bộ luật Lao động nhằm đảm bảo sức khỏe cho người lao động.
Về thời gian áp dụng, dự thảo Nghị quyết được xây dựng trong bối cảnh “đặc biệt” và “cấp bách”; nội dung quy định tại dự thảo Nghị quyết là khác so với Bộ luật Lao động năm 2019, theo đó về nguyên tắc, việc thực hiện chính sách tại dự thảo Nghị quyết chỉ nên thực hiện trong một thời gian ngắn, thích hợp để giải quyết những vấn đề cấp bách, cấp thiết.
Theo điểm 3.8 Nghị quyết số 30/2021/QH15, các biện pháp quy định tại các điểm 3.3, 3.4 Nghị quyết số 30/2021/QH15 được thực hiện cho đến hết ngày 31/12/2022 và báo cáo Quốc hội về việc áp dụng các biện pháp đặc biệt này tại kỳ họp gần nhất.
Vì vậy, thời gian áp dụng chính sách này được dự thảo trong Nghị quyết là kể từ thời điểm Nghị quyết được ký ban hành đến thời điểm các biện pháp quy định tại điểm 3 của Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV hết hiệu lực thi hành.
Bình luận