Trả lời VTC News, ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách và Thương mại đa biên (Bộ Công Thương) cho rằng (RCEP) ký kết giữa khối ASEAN và 5 quốc gia đối tác ở khu vực sẽ thúc đẩy chuỗi giá trị và kinh tế của Việt Nam, đồng thời hướng Việt Nam thành điểm đến đầu tư tiềm năng sau dịch COVID-19.
Việc chủ động cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng sẽ đem lại giá trị cho nền kinh tế Việt Nam còn cao hơn so với các lợi ích mở cửa thị trường trực tiếp của các nước, giúp Việt Nam có cơ hội trở thành một điểm đến đáng tin cậy cho các nhà đầu tư quốc tế về lâu dài.
- RCEP sẽ đem lại lợi ích kinh tế cho Việt Nam trên những khía cạnh nào, thưa ông?
- Trong bối cảnh COVID-19 bùng phát làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực, gây ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu cùng với xu hướng bảo hộ mậu dịch đang nổi lên, việc ký kết RCEP đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam và mang lại các lợi ích cả trong ngắn hạn cũng như dài hạn.
RCEP khi được thực thi sẽ tạo nên một thị trường lớn với quy mô 2,2 tỷ người tiêu dùng, chiếm khoảng 30% dân số thế giới, với GDP 26,2 nghìn tỷ USD, chiếm khoảng 30% GDP toàn cầu và sẽ trở thành khu vực thương mại tự do lớn nhất trên thế giới. Với các cam kết về mở cửa thị trường trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và hài hòa hóa quy tắc xuất xứ (thay vì áp dụng 5 bộ quy tắc xuất xứ của 5 hiệp định FTA như hiện nay) giữa tất cả các bên tham gia cũng như tăng cường các biện pháp tạo thuận lợi thương mại, việc thiết lập RCEP sẽ tạo cơ hội để phát triển các chuỗi cung ứng mới trong khu vực mà doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội tham gia.
RCEP sẽ giúp thiết lập thị trường xuất khẩu ổn định lâu dài. Trước tình hình thế giới đầy biến động gây ra những xáo trộn về chuỗi cung ứng trong những năm gần đây, việc hình thành một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới theo RCEP sẽ tạo ra một thị trường xuất khẩu ổn định dài hạn cho Việt Nam, qua đó góp phần thực hiện chính sách xây dựng nền sản xuất định hướng xuất khẩu của ta.
Việc thực hiện RCEP sẽ tạo nên một khuôn khổ ràng buộc pháp lý trong khu vực về chính sách thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, giải quyết tranh chấp...,góp phần tạo nên môi trường thương mại công bằng trong khu vực. Theo một số nghiên cứu độc lập, ví dụ như nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, thì việc chúng ta chủ động cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng sẽ đem lại giá trị cho nền kinh tế Việt Nam còn cao hơn so với các lợi ích mở cửa thị trường trực tiếp của các nước, làm cho Việt Nam có cơ hội trở thành một điểm đến đáng tin cậy cho các nhà đầu tư quốc tế về lâu dài.
Cuối cùng, việc kết thúc đàm phán và ký kết RCEP góp phần nâng cao vai trò và vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
- Tuy nhiên, thành viên của RCEP không chỉ bao gồm các nước phát triển, mà còn có những nước chưa phát triển. Theo ông, chênh lệch về kinh tế như vậy gây ra khó khăn gì khi hiệp định có hiệu lực?
Chênh lệch về kinh tế như vậy đã dẫn quá trình đàm phán phải trải qua nhiều thời điểm hết sức khó khăn nhưng với việc kết thúc đàm phán và ký thành công Hiệp định vào ngày 15/11, các nước tham gia RCEP đã tìm ra các giải pháp sáng tạo và linh hoạt để có thể vừa đảm bảo lợi ích riêng của từng nước đồng thời tăng cường hợp tác kinh tế khu vực.
Là hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà ASEAN khởi xướng và dẫn dắt, RCEP được xây dựng phù hợp với trình độ phát triển của tất cả các nước tham gia, đặc biệt là phù hợp với cả một số nước ASEAN vẫn còn là nước kém phát triển. Các nghĩa vụ mới so với các FTA truyền thống trước đây của ASEAN như mua sắm của chính phủ cũng dừng ở mức hợp tác, không cam kết về mở cửa thị trường. Do đó RCEP không gây ra nhiều khó khăn cho các nước kém phát triển hơn trong quá trình thực thi.
Các nước tham gia RCEP cũng xác định đây là bước đi ban đầu, hướng đến các mức độ hợp tác cao hơn khi các nước sẵn sàng.
- Việt Nam giải quyết bài toán và tình trạng nhập siêu tồn tại nhiều năm với Trung Quốc cũng như một số đối tác trong RCEP thế nào?
- Với tất cả các nước ASEAN, RCEP không hướng đến giá trị gia tăng mới về mở cửa thị trường do ASEAN đều đã FTA với các đối tác. Thay vào đó, RCEP về cơ bản là thỏa thuận mang tính kết nối các cam kết đã có của ASEAN với 5 đối tác với ASEAN trong một hiệp định FTA. Ví dụ, doanh nghiệp sẽ chỉ phải sử dụng 1 quy tắc xuất xứ thay vì 5 bộ quy tắc xuất xứ riêng ở các FTA trước đây. Tương tự, các quy tắc về thủ tục hải quan và tạo thuận lợi thương mại cũng được thống nhất và tăng cường. Do đó, về cơ bản sẽ không tạo ra cam kết mở cửa thị trường hay áp lực cạnh tranh mới mà chủ yếu hướng đến tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Như vậy RCEP chắc chắn sẽ không làm trầm trọng nhập siêu, thậm chí là có khả năng cải thiện cho Việt Nam và các nước ASEAN, đặc biệt là trong dài hạn.
Quá trình đàm phán các cam kết về mở cửa thị trường trong RCEP đều có sự nghiên cứu và góp ý chặt chẽ từ các các bộ ngành liên quan và doanh nghiệp nhằm đảm bảo lợi ích cao nhất của Việt Nam.
Cuối cùng, nhập siêu hay không là một yếu tố cần xem xét nhưng không phải là yếu tố duy nhất khi cân nhắc lợi ích của các FTA. Đơn cử như trường hợp chúng ta có FTA song phương và khu vực với Hàn Quốc, nay thêm quan hệ FTA thông qua RCEP. Mặc dù còn nhập siêu lớn nhưng không thể phủ nhận giá trị của các hiệp định này trong việc giúp gắn kết hai nền kinh tế, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài và đem lại nhiều giá trị cụ thể cho người dân và doanh nghiệp hai bên.
Khi chúng ta gia nhập WTO thì nhập siêu cũng rất lớn nhưng từ việc chấp nhận hội nhập để tự vươn lên thì doanh nghiệp của Việt Nam cũng đã có những bước phát triển vượt bậc, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp không bị giảm đi mà còn tăng lên đáng kể. Nay chúng ta đã hội nhập trong nhiều năm nên hy vọng sẽ rút ra được các kinh nghiệm cần thiết để hội nhập thành công khi tham gia RCEP.
- Nhiều ý kiến cho rằng RCEP có khả năng mang lại lợi ích cho Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc hơn các quốc gia thành viên khác. Quan điểm của Bộ Công Thương về việc này?
Hiệp định dự kiến đem lại lợi ích cho tất cả các nước tham gia. Tuy nhiên, xét về lợi ích cụ thể thì các nhóm nước khác nhau có lợi ích cũng khác nhau.
Cụ thể, với tất cả các nước ASEAN thì đây là hiệp định không hướng đến giá trị gia tăng mới về mở cửa thị trường do ASEAN đều đã FTA với các đối tác. Thay vào đó, với góc độ hài hòa các quy định hiện có của các ASEAN đã có với các đối tác thì hiệp định được coi là có giá trị cao trong việc giảm chi phí giao dịch, thu hút đầu tư nước ngoài và tăng cường vị trí trung tâm của ASEAN trong việc giải quyết các xung đột về thương mại trong khu vực. Trong bối cảnh thế giới đang có có nhiều biến động hiện nay, đặc biệt là việc Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) không thể đóng vai trò hiệu quả trong giải quyết các xung đột thương mại như trước đây thì đây là giá trị không nhỏ cho các nước có quy mô kinh tế vừa phải như các thành viên ASEAN.
Với 5 nước đối tác của ASEAN là Úc, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Niu Di-lân thì góc nhìn có khác. Ngoài các giá trị các nước này chia sẻ với các thành viên ASEAN thì 5 nước đối tác cũng được hưởng lợi ích từ việc mở cửa thị trưởng mới cho nhau, đặc biệt là giữa các nước hiện chưa có quan hệ FTA. Khác với các nước ASEAN, trước khi thiết lập khu vực RCEP thì Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc chưa có FTA với nhau, thậm chí quá trình đàm phán riêng giữa 3 nước này kéo dài nhưng không đạt được kết quả.
Tuy nhiên, khi được đặt trong không gian của hiệp định RCEP và với sự trung hòa quan điểm từ các nước ASEAN thì các nước đối tác cũng đã thống nhất được quan điểm với nhau. Đây chính là thể hiện rõ rệt nhất vai trò trung tâm của ASEAN. Cũng có lẽ vì lý do đó mà RCEP là một số ít hiệp định mà cả trong quá trình đàm phán lẫn khi ký kết đều có sự tham gia trực tiếp của Lãnh đạo cấp cao các nước ASEAN và đối tác.
- Bộ Công Thương tính đến các chính sách phòng vệ, hàng rào thuế quan để bảo vệ thị trường nội địa trước những đối thủ rất mạnh từ Hàn, Trung và Nhật thế nào, thưa ông?
Khi Hiệp định RCEP đi vào hiệu lực sẽ làm gia tăng sức ép cạnh tranh do đặc điểm các nền kinh tế trong khu vực RCEP có nhiều điểm tương đồng, thậm chí có năng lực cạnh tranh mạnh hơn Việt Nam trong khi chất lượng và hàm lượng giá trị gia tăng của hầu hết sản phẩm của Việt Nam còn khiêm tốn.
Tuy nhiên trên thực tế, RCEP về cơ bản là một khuôn khổ mang tính kết nối các cam kết hiện hành của ASEAN với từng đối tác trong số 5 đối tác trong một Hiệp định FTA theo hướng tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư hơn. Do đó, về cơ bản RCEP sẽ không tạo ra cam kết mở cửa thị trường cao hơn đối với Việt Nam hay áp lực cạnh tranh mới mà chủ yếu hướng đến tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đồng thời, với các công cụ phòng vệ thương mại trong khuôn khổ RCEP và WTO, Bộ Công Thương sẽ theo dõi sát sao tình hình xuất nhập khẩu sau khi RCEP có hiệu lực để có biện pháp phòng vệ phù hợp trong những trường hợp hàng hóa nhập khẩu cạnh tranh không công bằng, gây thiệt hại đáng kể để bảo vệ đến sản xuất trong nước.
Việc cần làm để tăng tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam cũng như cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị khu vực là tăng cường nội lực cho doanh nghiệp. Theo đó, bên cạnh các giải pháp đồng bộ từ Chính phủ, Bộ, ngành và các địa phương, các doanh nghiệp, hiệp hội cần chủ động và tích cực tìm hiểu thông tin về các FTA để nắm vững cam kết của Việt Nam và các thị trường đối tác quan tâm.
- Vậy để giành ưu thế cạnh tranh, không thua ngay trên sân nhà, theo ông doanh nghiệp Việt cần quan tâm điều gì nhất trong RCEP?
Cũng như với các hiệp định FTA khác, để khai thác triệt để lợi ích do Hiệp định RCEP mang lại, việc đầu tiên doanh nghiệp Việt Nam cần làm là nghiên cứu kỹ cam kết của hiệp định, nhất là các cam kết liên quan đến lĩnh vực kinh doanh của mình, chẳng hạn như lộ trình cắt giảm và xóa bỏ thuế quan đối với hàng hóa của Việt Nam và của các nước tham gia hiệp định, quy tắc xuất xứ của hiệp định, cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực dịch vụ và đầu tư, các quy định về thủ tục hải quan và thuận lợi hóa thương mại…
Ngoài các lợi ích, doanh nghiệp trong nước cũng cần chủ động nắm bắt và chuẩn bị trước về các tác động bất lợi mà RCEP gây ra, nhất là việc gia tăng cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa.
Bình luận