Thủ đoạn được hiểu là cách thức, mánh lới để thực hiện hành vi. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Thủ đoạn là cách hành động, tính toán theo chiều hướng chuyển thiệt hại của người khác thành lợi ích của mình”.
Vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH là hành vi nguy hiểm cho xã hội do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện cố ý hoặc vô ý vi phạm đến các quy định của pháp luật trong quản lý và thực hiện chính sách BHXH.
Thủ đoạn thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH là hệ thống những hành vi, những mánh lới, những cách thức của đối tượng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH nhằm mục đích đặt ra từ trước của các đối tượng vi phạm.
Trong những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH có diễn biến phức tạp.
Theo thống kê, từ năm 2007 – 2016, BHXH Việt Nam đã tiến hành kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BHXH với 103.199 lượt đơn vị sử dụng lao động.
Qua kiểm tra, phát hiện đề nghị xử phạt vi phạm hành chính pháp luật về BHXH 7.765 vụ và đã xử phạt vi phạm hành chính 2.020 vụ; đề nghị truy thu về Quỹ BHXH 331,5 tỷ đồng. Tính đến hết năm 2016, số tiền nợ BHXH của doanh nghiệp là 7.795 tỷ đồng, chiếm 3,30 % so với tổng số tiền phải thu.
Hiện nay, có khoảng hơn 300.000 doanh nghiệp đang hoạt động nhưng chỉ có 150.000 doanh nghiệp tham gia BHXH. Như vậy, số doanh nghiệp trốn đóng BHXH là khoảng 150.000 doanh nghiệp với trên 05 triệu lao động.
Ngoài ra, các hành vi gian lận, khai man, lập hồ sơ BHXH khống để hưởng các chế độ BHXH...
Dưới đây là một số thủ đoạn thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH người lao động cần biết.
1. Lợi dụng cơ chế, chính sách BHXH còn có kẽ hở; chế tài xử lý nợ chậm đóng BHXH cho người lao động chưa nghiêm nên doanh nghiệp cố tình chây lỳ trốn đóng hoặc chiếm dụng BHXH của người lao động.
Trong những năm qua, do quy định mức phạt lãi suất chậm đóng BHXH và mức phạt tối đa đối với hành vi chậm đóng BHXH thấp nên nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng các qui định này chiếm dụng tiền BHXH của người lao động.
Doanh nghiệp sử dụng số tiền đó để đầu tư trở lại sản xuất, kinh doanh và chấp nhận nộp phạt. Vì tổng số tiền phải nộp phạt và lãi chậm đóng BHXH thấp hơn so với lãi suất vay ngân hàng.
2. Người sử dụng lao động lách luật bằng cách hợp đồng miệng hoặc kí liên tiếp chuỗi hợp đồng theo thời vụ hoặc chuỗi hợp đồng lao động có thời hạn dưới 3 tháng hoặc kéo dài thời gian thử việc. Vì theo quy định của Luật BHXH năm 2006, người lao động có hợp đồng lao động dưới 3 tháng không phải tham gia BHXH bắt buộc.
Trước khi Luật BHXH năm 2014 có hiệu lực từ ngày 01/01/2016, thủ đoạn này xảy ra khá phổ biến ở các doanh nghiệp vừa, nhỏ và hộ gia đình.
Với thủ đoạn lợi dụng kẽ hở này của pháp luật, đơn vị sử dụng lao động không phải đăng kí tham gia BHXH bắt buộc cho người lao động nhằm trốn đóng BHXH cho người lao động. Nếu bị phát hiện thì doanh nghiệp chấp nhận nộp phạt.
3. Để đóng mức BHXH thấp hơn mức quy định, doanh nghiệp đã lập và sử dụng hai hệ thống số lương khác nhau
Một hệ thống lương dùng để chi trả lương thực tế cho người lao động; một hệ thống lương khác dùng để đăng ký tham gia và làm cơ sở tính mức đóng BHXH (mức lương này chỉ bằng hoặc cao hơn mức lương tối thiểu vùng một chút).
Với thủ đoạn này, các doanh nghiệp đã trốn đóng một khoản tiền BHXH mà theo quy định pháp luật họ phải đóng cho cơ quan BHXH.
Điển hình, qua kiểm tra, thanh tra tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn J and V, tỉnh Đồng Nai, phát hiện nhiều trường hợp người lao động có tới 2 hợp đồng lao động. Mức lương ký trên hợp đồng lao động thực trả là 12.000.000 đồng/tháng, mức lương ký hợp đồng lao động để tham gia BHXH chỉ là 2.000.000 đồng/tháng (bằng với mức lương tối thiểu vùng).
Những thủ đoạn gian lận để thụ hưởng các chế độ BHXH
1. Người vi phạm lập khống, giả mạo hồ sơ BHXH làm căn cứ cho việc thanh toán chế độ ốm đau, thai sản nhằm chiếm đoạt tiền BHXH.
Để lừa dối cơ quan chức năng nhằm chiếm đoạt tài sản, người vi phạm làm giả giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH, giấy ra viện, giấy khám thai hoặc sửa chữa, tẩy xóa các loại giấy tờ này hoặc móc nối với cơ sở y tế để được cấp giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH, giấy ra viện, giấy khám thai không đúng quy định làm căn cứ thanh toán tiền trợ cấp ốm đau, thai sản.
Ngoài ra, người vi phạm còn thành lập doanh nghiệp “ma”, sau đó làm hợp
đồng tuyển dụng lao động khống cho nhân viên nữ để đăng kí đóng BHXH hoặc hợp đồng tuyển lao động phụ nữ có thai. Thực tế, họ không làm việc mà vẫn đăng kí đóng BHXH đầy đủ 6 tháng theo quy định.
Người vi phạm lập hồ sơ BHXH khống và làm thủ tục đề nghị thanh toán chế độ thai sản, chiếm đoạt tiền BHXH.
Điển hình: Vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra tại Hồ Chí Minh, năm 2015. Lê Thành Thắng cấu kết với một số đối tượng thành lập 10 doanh nghiệp “ma”.
Khi đã có tư cách pháp nhân, Thắng lập khống hồ sơ tuyển nhân viên nữ làm việc trong các doanh nghiệp do mình điều hành và đăng ký đóng tiền BHXH cho các nhân viên này từ 6 - 8 tháng rồi ngưng đóng. Sau đó, lập hồ sơ cho nhân viên nghỉ sinh đẻ hoặc cho thôi việc, sau đó làm thủ tục để nghị thanh toán chế độ ốm đau, thai sản với số tiền chiếm đoạt trên 1,3 tỷ đồng.
3. Hợp thức hóa những tai nạn không thuộc diện tai nạn lao động thành tai nạn lao động để hưởng trợ cấp tai nạn lao động hoặc đăng kí tham gia BHXH sau khi đã xảy ra tai nạn để được hưởng chế độ bảo hiểm tai nạn nghề nghiệp.
Thủ đoạn này luôn có sự cấu kết giữa người lao động và người sử dụng lao động thể hiện ở việc khai báo không trung thực về thời gian, địa điểm xảy ra tai nạn, ngụy tạo hồ sơ để hợp thức hóa các tai nạn rủi ro thành tai nạn lao động, để chiếm đoạn tiền chế độ tai nạn lao động.
4. Làm hồ sơ khống để làm thủ tục hưởng chế độ hưu trí cho một số người chưa đủ thời gian tham gia BHXH, như: xác nhận khống thời gian làm việc và tham gia BHXH để làm giải quyết chế độ hưu trí; đề nghị điều chỉnh lại ngày tháng năm sinh tăng lên hoặc giảm xuống theo hướng có lợi cho bản thân khi giải quyết chế độ…
5. Thu gom sổ BHXH của người tham gia BHXH đã nghỉ việc mà không nhận lại sổ, sau đó lập hồ sơ BHXH khống, chiếm đoạt tiền BHXH.
Khi người lao động nghỉ việc, doanh nghiệp có trách nhiệm chốt sổ BHXH và trả cho người lao động. Nếu sau 12 tháng, người lao động không đến nhận thì doanh nghiệp trả cho cơ quan BHXH lưu giữ nhằm bảo vệ quyền lợi của họ.
Nhưng thực tế, các doanh nghiệp không ý thức chốt và trả sổ; người lao động ít khi nhận sổ sau khi nghỉ việc do thời gian làm việc ngắn hoặc đi xa... Điều này đã tạo điệu kiện cho đối tượng ngoài xã hội thông đồng với doanh nghiệp thu gom, mua sổ BHXH, sau đó làm giả, lập khống hồ sơ BHXH đề nghị hưởng trợ cấp BHXH một lần nhằm chiềm đoạt tiền BHXH.
Một số thủ đoạn vi phạm pháp luật liên quan quản lý và thực hiện BHXH
1. Y, bác sĩ, dược sĩ, nhân viên khác trong các bệnh viện đã chiếm đoạt thuốc chữa bệnh trong quá trình khám bệnh và cấp phát thuốc bằng các thủ đoạn lập khống toàn bộ hoặc một số chứng từ thanh toán thuốc BHYT.
Trong trường hợp này, tài sản của quỹ BHXH đã chuyển từ dạng tiền tệ sang vật chất và việc quản lý khối tài sản này thuộc trách nhiệm của người chức vụ, quyền hạn trong bệnh viện. Điển hình: Năm 2010, bác sĩ Lưu Tố Lan công tác Bệnh viện Chợ Rẫy, Hồ Chí Minh chiếm đoạt 3,9 tỉ đồng tiền BHYT.
Với thủ đọan trên, Lan làm giả hồ sơ khám chữa bệnh, kê toa thuốc khống để lấy thuốc theo chế độ BHYT đem bán. Ngoài ra, Lan đã cấu kết cùng nhân viên, bác sĩ bệnh viện tuyến dưới thu gom thẻ BHYT, lấy giấy chuyển viện khống sau đó kê đơn khống lấy thuốc theo BHYT đem bán lấy tiền chia nhau.
2. Lợi dụng kí thay, nhận hộ tiền BHXH mà không cần có giấy ủy quyền, người đại diện chi trả đã chiếm đoạt tiền chi trả chế độ BHXH của người được hưởng.
Do ngành BHXH chỉ thiết lập đến cấp huyện, chưa có cán bộ BHXH ở cấp xã nên việc chi trả chế độ BHXH thông qua người đại diện chi trả là Thủ trưởng đơn vị sử lao động hoặc người có chức vụ, quyền hạn ở cấp xã. Điển hình: Vụ án Lạm dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt tài sản do ông Nguyễn Mạnh Sửu, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Bình Đa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, năm 2014.
Video: Trốn đóng BHXH cho công nhân, doanh nghiệp sẽ bị xử lý nặng
Năm 1988, ông Cao Hồng Định nhận được văn bản dừng chi trả lương của Quân khu 7 để điều tra một vụ việc khác có liên quan đến ông. Sau đó, cơ quan BHXH tiếp tục chi trả nhưng ông Định không biết. Lợi dụng việc kí thay, nhận hộ lương hưu không cần giấy ủy quyền, ông Sửu đã nhận tiền hưu trí của ông Định nhưng không giao lại cho người được hưởng với số tiền hơn 316 triệu đồng.
Thủ đoạn cố ý làm trái trong khi thi hành công vụ
1. Cấp giấy chứng nhận nghỉ việc, cấp giấy ra viện, giấy khám thai không đúng quy định hoặc cố ý lập sai hồ sơ bệnh án điều trị nội trú cho bệnh nhân có thẻ BHYT. Đây là thủ đoạn của một số bác sỹ tại cơ sở khám chữa bệnh có thẩm quyền xác nhận và cấp các loại giấy tờ nêu trên mà không có người bệnh.
Các bác sĩ có thể đưa người nhà vào làm xét nghiệm đắt tiền nhưng lại ghi xét nghiệm đó cho bệnh nhân khác có thẻ BHYT được thanh toán 100 % hoặc kê những đơn thuốc đắt tiền cho những bệnh nhân có thẻ BHYT đang điều trị tại bệnh viện nhưng thực tế lại không sử dụng cho bệnh nhân đó.
2. Cấp biên bản giám định tỉ lệ suy giảm khả năng lao động không đúng quy định của lĩnh vực chuyên môn để người tham gia BHXH hưởng chế độ BHXH trái pháp luật.
Đây là thủ đoạn của một số bác sĩ của Hội đồng giám định y khoa các cấp có thẩm quyền khám và xác định tỉ lệ suy giảm khả năng lao động không đúng tình trạng thương tật, bệnh tật, mức suy giảm khả năng lao động đối với người được giới thiệu đi giám định khả năng lao động để hưởng các chế độ bảo hiểm tai nạn lao động - nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất…
Bằng thủ đoạn này, họ đã tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia các chế độ BHXH hưởng các chế độ BHXH trái pháp luật, gây thiệt hại cho quỹ BHXH.
3. Chủ sử dụng lao động xác nhận, chứng nhận khống hoặc xác nhận, chứng nhận không đúng với thực tế một sự việc, mối quan hệ để người lao động hoặc thân nhân hưởng lợi các chế độ BHXH, như: xác nhận hoặc chứng nhận khống về thời gian phục vụ trong lực lượng vũ trang hoặc trong các cơ quan, đơn vị khác để được tính cộng nối thời gian tham gia BHXH đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí; xác nhận hoặc chứng nhận hoặc làm chứng không đúng về thời gian, địa điểm xảy ra tai nạn để được công nhận là tai nạn lao động; xác nhận điều kiện làm việc, kết quả môi trường làm việc không đúng với điều kiện, môi trường thực tế để được xác định là mắc bệnh nghề nghiệp...
Bình luận