"Cái gì? Trấn Thành lại khóc nữa à? Nó xảy ra một cách dĩ nhiên như kiểu tới mùa mưa thì trời cứ thế mà mưa. Nó thường xuyên đến mức làm người ta phát bực, khó chịu, chướng mắt và thậm chí.... phản cảm”.
Đó là những cảm thán mới đây của chính Trấn Thành về việc anh thường xuyên khóc trong các chương trình truyền hình, game show, phim ảnh. Nhiều ý kiến cho rằng nam nghệ sĩ "khóc" quá nhiều và thiếu chuyên nghiệp trong kiểm soát cảm xúc.
Trong bài viết trên trang cá nhân, Trấn Thành thừa nhận anh biết rõ những bình luận tiêu cực từ một bộ phận khán giả. Song, kết lại, diễn viên Bố già khẳng định bản thân vẫn sẽ là "Thành Cry" vì "không thể làm khác được".
Dễ thấy, trong câu chuyện này, mâu thuẫn xảy ra khi thế giới quan của người làm nghệ thuật và công chúng, những người thưởng thức nghệ thuật, có điểm nhìn không trùng khớp. Trấn Thành là nghệ sĩ, anh có lý do để bày tỏ cảm xúc theo cách của riêng mình. Ngược lại, là những người theo dõi, khán giả cũng có lý do để phán xét cách thức nghệ sĩ thể hiện cảm xúc trong những chương trình, sự kiện, sản phẩm phục vụ công chúng.
Đặt những tranh cãi về một cá nhân sang một bên, khi đi sâu vào nghệ thuật điện ảnh, chủ đề "nước mắt" là một nội hàm thú vị. Đôi khi tài năng của người diễn viên thể hiện ở việc làm chủ tuyến lệ. Không tạo ra được sự đồng cảm về cảm xúc sẽ là một thất bại nhưng quá lạm dụng nước mắt cũng là biểu hiện của nghiệp dư trong kỹ nghệ diễn xuất.
Khóc dưới góc nhìn đời sống và góc nhìn nghệ thuật
Khóc là một hiện tượng vận tiết phức tạp được biểu thị bởi việc chảy nước mắt từ bộ phận tuyến lệ. Theo trang Healthline, khi nói đến việc khóc, không phải tất cả những giọt nước mắt đều mang ý nghĩa giống nhau. Nước mắt cơ bản giúp bảo vệ đôi mắt của bạn và giữ cho chúng được bôi trơn.
"Nước mắt chảy ra theo phản xạ để rửa sạch khói, bụi và bất kỳ thứ gì khác có thể gây kích ứng mắt của bạn. Nước mắt cũng có thể là biểu hiện của xúc động, thường được kích hoạt bởi cơn thịnh nộ, niềm vui hoặc nỗi buồn hay sự sợ hãi".
Trong điện ảnh, khóc chứa đựng sức lan truyền cảm xúc mạnh mẽ, kết nối từ thế giới tác phẩm tới bản thân người tiếp nhận. Tại điểm cao trào của xúc cảm, niềm hạnh phúc hay nỗi đau thường mang một hiện thân cụ thể.
Với diễn viên, khóc không chỉ là tạo ra nước mắt đơn thuần. Đó phải là cách thức họ sử dụng ngôn ngữ biểu đạt này để phóng đẩy sự thâm nhập và đồng cảm của khán giả hòa vào trải nghiệm cảm giác mà vai diễn tạo ra, dưới đa dạng hình thức biểu hiện.
Không ngạc nhiên khi Marion Cotillard đã giành được tượng vàng Oscar danh giá cho màn nhập vai Edith Piaf trong bộ phim La Vie en Rose (2007), một trong những tác phẩm tiểu sử ấn tượng của nền điện ảnh Pháp lãng mạn.
Khoảnh khắc nhận được tin báo tình yêu lớn nhất cuộc đời, Marcel Cerdan, ra đi trong một tai nạn máy bay, nỗi kinh hoàng của sự mất mát khiến rung động trong trái tim bà bật lên thành tiếng khóc ai oán. Giọt nước mắt lăn dài trên đôi môi từng đầy ắp nụ cười của tình yêu xen với tiếng nức nở dằn xé tạo nên thông điệp cảm xúc đau đớn qua ngôn ngữ kể chuyện tài tình của điện ảnh, vẽ lên một mảng phim buồn đan xen những hồi ức trống rỗng đầy cay đắng.
Khi ấy, khóc là hiện thân của đau đớn, mất mát, là hụt hẫng của ly biệt được lấp đầy bằng nước mắt.
Trong Mother (1996), tác phẩm điện ảnh chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Marxim Gorki, phân đoạn người phụ nữ ngồi bên xác chồng trong đám tang cũng là một thước phim mang giá trị nghệ thuật và cảm xúc mạnh mẽ. Giọt nước mắt của bà là sự phân thân của nỗi ưu phiền hiện lên trên gương mặt. Một nỗi đau lớn lao ngưng đọng nơi khóe mắt ấy, không chảy nổi thành dòng, thành giọt mà lặng đi. Đó là cảm xúc của một người vợ mất chồng trộn lẫn với nỗi lo âu của người mẹ mong chờ con trai trở lại.
Bên cạnh đó, khóc còn là những thổn thức của bất lực, của tuyệt vọng. Đó là giọt nước mắt của hồ ly Tiểu Duy (Châu Tấn) dành cho Vương Sinh (Trần Cung) trong Họa Bì (2008), một bức tranh tình yêu đầy nghẹn ngào, bi thương của nền điện ảnh sứ Cảng Thơm. Tình yêu của cô mãnh liệt mà đau đớn không thua kém Bội Dung, với kết cục phải chấp nhận nỗi thất vọng khi không thể có được trái tim người mình thương và cái giá phải trả bằng cả tính mạng. Vậy nên nhìn Tiểu Duy khóc, người ta chỉ thấy đáng thương thay vì đáng trách.
Với đoạn kết Call Me by Your Name, tác phẩm nghệ thuật nhận được giải thưởng Oscar 2018, phân cảnh Elio (Timotheé Chalamet thủ vai) ngồi khóc trước lò sưởi gây ám ảnh khán giả màn ảnh rộng suốt một thời gian dài bởi những thông điệp cảm xúc mà nó truyền tải. Chia tay Oliver trở về xứ Mỹ xa xôi, chia tay tình đầu đẹp nhưng đầy dang dở, Elio ở lại với ký ức tuổi 17 nhuộm đầy nắng vàng cùng mảnh hồn bị chia đôi nửa.
Lần đầu trong lịch sử điện ảnh, một nhân vật ngồi khóc bất động suốt hơn 3 phút cuối phim, tạo nên cái kết bi thương với những nghẹn ngào khó bật lên thành tiếng. Màn trình diễn được ví như những phút giây tuyệt tác của điện ảnh với việc nam diễn viên trẻ thành công tô vẽ vẻ đẹp đau thương, ly biệt trên lối diễn xuất đầy tinh tế.
Khi ấy, khóc lại là tiếng lòng của chia ly, của nỗi buồn không thể cất thành lời.
Lằn ranh giữa cảm xúc và "nghệ thuật rỗng"
Dễ thấy, những giọt nước mắt đắt giá của diễn viên chỉ rơi vào khoảnh khắc lắng đọng của nghệ thuật, vì ở đó, chính kết tinh của cảm xúc tạo nên linh hồn cho vai diễn. Bằng cách khơi dậy nỗi đồng cảm, “hiện diện của nước mắt trở thành bất hủ, nuôi dưỡng sức sống của tác phẩm, đánh thức ý thức sáng tạo của người nghệ sĩ về giá trị biểu hiện của ngôn ngữ điện ảnh”.
Vì lẽ đó, không phải ngẫu nhiên các đạo diễn lựa chọn kết cục buồn cho nhân vật trong tác phẩm của mình.
Dẫu nước mắt là phương tiện truyền tải và kết nối cảm xúc, điều này không đồng nghĩa với việc chỉ cần diễn viên “khóc”, khán giả phải có trách nhiệm “đồng cảm”. Họ, những người cảm nhận, có quyền được từ chối khi những gì nghệ sĩ thể hiện đơn thuần là thứ "cảm xúc rỗng" ẩn danh dưới vỏ bọc nghệ thuật, đặc biệt là việc lạm dụng các tình tiết cảm động, lấy nước mắt hòng chiếm đoạt cảm tình của khán giả mà trong điện ảnh, người ta gọi chung bằng thuật ngữ “Catharsis”.
Từng có những cuộc tranh luận bùng nổ trong giới phê bình tại Hollywood vào những thập niên 80, 90 về tác dụng và phản tác dụng của trường phái này. Đa số nhận định chỉ ra rằng: một giọt nước mắt trên má diễn diễn viên sẽ khiến người xem đổ lệ, nhưng việc lạm dụng quá nhiều trên màn ảnh có thể dẫn tới lê thê và khiến người xem bối rối, khó chịu.
“Đối với thế hệ của tôi, đó là một tư duy cổ lỗ, lạc hậu, nhấn mạnh quá nhiều đến chức năng thanh tẩy, đề cao hay lạc quan hóa giá trị của nước mắt trong nghệ thuật. Cảnh khóc lóc có thể khiến tôi cảm động, nhưng cũng có thể khiến tôi cảm giác bị quấy rầy, hoặc thậm chí là đau khổ một cách thừa thãi. Có khá nhiều bộ phim xây dựng theo kiểu như vậy, tạo dựng cảm xúc một cách ẩu đoảng, xơ rối và phi nghệ thuật”, nhà phê bình Adrian Martin chia sẻ.
Tiêu biểu, có thể kể tới những cái tên như Interiors (1978) của Woody Allen, The Crying Woman (1979), hay vai diễn Jane Campion (Nichole Kidman) của The Portrait of a Lady (1996). Đều có kịch bản hay, dàn diễn viên năng lực nhưng điểm chung của các tác phẩm này là việc sử dụng Carthasis phi lý, không phù hợp với bối cảnh, diễn biến tâm lý và câu chuyện của nhân vật. Chính điều đó đã khiến phim trở nên thê lương một cách lãng nhách, không tạo được thiện cảm cho khán giả và cả giới phê bình.
“Một hương vị ngon khó đọng lại trên cuống lưỡi của kẻ thích ăn xổi”. Dù là con đường ngắn nhất để chinh phục trái tim, những cảnh phim khóc lóc nếu không được xử lý khéo léo mà trở nên gượng ép, dàn trải trên chất liệu cảm xúc khô khan cũng khó lòng có thể chiều chuộng được khẩu vị của những khán giả tinh nghề.
Bình luận