Ngành Mía đường không chỉ cần nâng cao năng lực cạnh tranh để giành lại thị phần nội địa mà phải tận dụng triệt để cơ hội và sự hỗ trợ của Chính phủ để trở thành “mắt xích mạnh”, đảm bảo linh hoạt nguồn cung cho tiêu dùng và sản xuất trong nước.
1. Được “o bế” nhưng chưa tận dụng được cơ hội
Mía đường Việt Nam từng là một trong những ngành nông nghiệp trọng điểm khi tạo ra việc làm cho hàng triệu hộ gia đình, sản xuất đáp ứng đủ nhu cầu trong nước. Sau hội nhập ATIGA, ngành mía đường trong nước lý giải sự sa sút của mình bởi thách thức từ sự cạnh tranh của đường nhập khẩu và đường lậu.
Không thể phủ nhận những thách thức lớn mà toàn cầu hoá đặt ra cho ngành Mía đường. Do đó, Chính phủ đã có những chính sách quyết liệt kịp thời nhằm thực hiện lộ trình hội nhập đảm bảo đầy đủ, đúng lộ trình, thực thi hiệu quả các cam kết, phù hợp thông lệ quốc tế, đảm bảo sự bình đẳng, công bằng trong cạnh tranh cũng như lợi ích của tất cả các bên có liên quan.
Nổi bật là sự quan tâm đặc biệt của nhà nước đối với ngành Mía đường khi mía đường cũng được đưa vào danh sách những sản phẩm được gia hạn thực hiện lâu nhất lên tới 2 năm trong các phiên đàm phán hiệp định ATIGA.
Ngày 15-6-2021, Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 1578/QĐ-BCT về việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp chính thức đối với đường mía có xuất xứ từ Thái Lan.
Song song đó, các hành động được Bộ Công Thương liên tiếp triển khai trong thời gian qua đã góp phần ngăn chặn được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong ngành Mía đường nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành nhập khẩu mặt hàng đường, góp phần bảo hộ ngành mía đường trong nước.
Vừa qua, Hiệp hội Mía đường Việt Nam (VSSA) đã có báo cáo sản xuất mía đường 6 tháng đầu năm 2022. Trong tháng 06/2022, các nhà máy của ngành đường Việt Nam đã hoàn thành vụ mía 2021/2022.
Lũy kế đến kết thúc vụ toàn ngành đã ép được 7.523.728 tấn mía sản xuất được 741.666 tấn đường. Trong khi mức tiêu thụ dự báo lên đến 2,1 - 2,3 triệu tấn, tức đường trong nước chỉ đáp ứng chưa đến 40% nhu cầu. Đồng thời mặc dù giá mía được cho là có những sự cải thiện đáng kể, nhưng diện tích mía cũng giảm liên tiếp những năm gần đây, từ hơn 190.000 ha niên vụ 2018-2019 chỉ còn gần 129.000 ha niên vụ 2020-2021.
Nhìn vào số liệu trên, để công bằng nhận định rằng ngành Mía đường vẫn còn bộc lộ những hạn chế rõ ràng khiến đường nội ngày càng sa sút về sản lượng và bỏ lại khoảng trống cho đường ngoại và đường lậu.
2. Mắt xích yếu trong sản xuất mía đường trong nước
Ngành Mía đường Việt Nam hiện tại chủ yếu vẫn khá manh mún, nhỏ lẻ về quy mô và lạc hậu trong sản xuất. Tỉ lệ cơ giới hoá của Việt Nam chỉ mới đạt từ 10-20% và chủ yếu là tập trung ở khâu làm đất do khó áp dụng trên các diện tích nhỏ lẻ. Điều này dẫn đến năng suất của Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước xung quanh như Thái Lan.
Năng suất thấp nên lợi nhuận của người nông dân cũng ngày càng kém hấp dẫn, dẫn đến hệ quả là mặc dù giá mía đã có những bước phục hồi nhưng người dân không mặn mà phát triển diện tích.
Năng lực sản xuất mía đường ở Việt Nam cũng cần cải thiện hơn nữa ở tất cả các khâu đặc biệt là khâu chế biến đường và khâu quản lý sản xuất mía đường để tiết giảm chi phí, hạ giá thành, nâng cao sức cạnh tranh.
Tính đến hiện tại, số lượng nhà máy sản xuất đường trên cả nước chỉ còn 24 nhà máy bên cạnh số ít các nhà máy hiện đại, công suất lớn; đa số còn lại đều có công suất thấp, công nghệ sơ xài, thiếu đồng bộ để tận dụng chuỗi giá trị cây mía, hiện lại gặp khó khăn khi sản lượng mía mới chỉ đáp ứng hơn 50% công suất vận hành khiến chi phí sản xuất và giá thành tăng cao, trong khi lợi nhuận khó đáp ứng nhu cầu tái đầu tư vùng nguyên liệu. Chính vì vậy, đường nội Việt Nam liên tục gặp tình trạng cung không đủ cầu.
Những tồn tại này kéo dài không chỉ tạo ra những tác động tiêu cực đến ngành Đường mà còn gây ảnh hưởng đến người tiêu dùng và các đơn vị sản xuất khác trong nước đồng thời tạo kẽ hở cho đường lậu hoành hành.
Hệ quả hiện hữu của ngành Mía đường cạnh tranh kém là việc nguồn cung trong nước gặp nhiều khó khăn khi không tự chủ được đầu vào. Giai đoạn quý III, IV là thời điểm nhu cầu đường sản xuất tăng cho sản xuất bánh kẹo dịp Trung thu và chuẩn bị hàng hoá cho Tết nguyên đán.
Do vụ ép mía của các nhà máy thường bắt đầu từ tháng 12 đã gây ra tình trạng thiếu hụt “giáp hạt” - tồn kho giảm mà chưa vào vụ ép, trong khi, nguồn cung từ nhập khẩu gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng chuỗi cung ứng toàn cầu.
Đại diện một công ty sản xuất F&B lớn tại Việt Nam cho rằng họ đang gặp khó khăn trong dự trữ đường tồn kho cho hoạt động sản xuất cao điểm nhất trong năm. Vị này cho rằng do nhu cầu đường công nghiệp trong giai đoạn này tăng mạnh 20-30%, trong khi các đơn vị cung ứng khó tìm được nguồn cung bổ sung. Bên cạnh đó, chi phí và thời gian ở khâu logistics phát sinh đã tạo ra “nút thắt cổ chai” gây khó khăn cho nhà sản xuất.
Có thể thấy rằng, những khó khăn của ngành Mía đường đang gặp phải không chỉ đến từ bên ngoài mà còn đến từ bên trong - nội lực ngành. Trách nhiệm của ngành Mía đường không chỉ là nâng cao năng lực cạnh tranh để từng bước giành lại thị phần nội địa mà trở thành “mắt xích mạnh” đảm bảo linh hoạt được nguồn cung cho tiêu dùng và sản xuất trong nước.
Bình luận