Dự án cấp nước và nước thải đô thị gồm 2 hợp phần: hợp phần 1 đầu tư và thực thi dự án, hợp phần 2 hỗ trợ kĩ thuật.
Hợp phần 1 được chia thành hợp phần 1A và 1B. Hợp phần 1A gồm 7 tiểu dự án cấp nước tại 7 đô thị thuộc 7 tỉnh: thị xã Uông Bí (Quảng Ninh), thành phố Ninh Bình (Ninh Bình), thành phố Tam Kỳ (Quảng Nam), thành phố Đà Lạt (Lâm Đồng) khu công nghiệp và đô thị Mỹ Phước (Bình Dương) thị xã Đồng Xoài (Bình Phước) và huyện Phú Quốc (Kiên Giang).
Hợp phần 1B gồm 7 tiểu dự án thoát nước và vệ sinh môi trường tại 7 đô thị thuộc 7 tỉnh: thành phố Ninh Bình (Ninh Bình), thị xã Bỉm Sơn (Thanh Hóa), thị xã Thái Hòa (Nghệ An), thành phố Đông Hà (Quảng Trị), thành phố Tam Kỳ (Quảng Nam), thành phố Đà Lạt (Lâm Đồng), thị xã Đồng Xoài (Bình Phước).
Các dự án của hợp phần 1 do các UBND thành phố/thị xã (đối với tiểu dự án thoát nước) và công ty cấp nước (đối với tiểu dự án cấp nước) thực hiện. Tổng mức đầu tư là 232,38 triệu USD (vốn vay của Ngân hàng Thế giới - WB là 1,97 triệu USD, vốn đối ứng là 35,38 triệu USD)
Hợp phần 2 cũng được chia thành hợp phần 2A và 2B. Hợp phần 2A gồm các dịch vụ tư vấn nhằm phát triển ngành, hỗ trợ các Ban quản lý dự án thực thi và giám sát tiến độ dự án, quản lý các tài khoản đặc biệt của dự án và giám sát độc lập về an toàn xã hội – môi trường và các vấn đề tài chính. Đơn vị thực hiện là Ban quản lý dự án Phát triển Hạ tầng kĩ thuật – Bộ Xây dựng.
Hợp phần 2B hỗ trợ các dịch vụ tư vấn nhằm đưa ra các chính sách khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào hoạt động kinh doanh cấp thoát nước và vận hành hiệu quả. Đơn vị thực hiện là Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Tổng mức đầu tư cho các dự án thành phần do Bộ Xây dựng thực hiện là 2,35 triệu USD (vốn vay của WB là 1,8 triệu USD, vốn đối ứng là 0,55 triệu USD); tổng mức đầu tư cho các dự án thành phố do Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện là 1,46 triệu USD (vốn vay WB là 1,2 triệu USD, vốn đối ứng là 0,26 triệu USD).
Nhiều vi phạm trong phê duyệt tổng mức đầu tư, lựa chọn nhà thầu
Đánh giá về việc chấp hành pháp luật, chính sách, chế độ trong quản lý dự án đầu tư xây dựng, Kiểm toán Nhà nước nhận định công tác lập, thẩm định, phê duyệt và điều chỉnh tổng mức đầu tư của các dự án còn nhiều thiếu sót.
Cụ thể, trong quá trình thực hiện, tổng mức đầu tư các tiểu dự án còn phải điều chỉnh. Nguyên nhân điều chỉnh tăng là do chưa lường trước được các chi phí lãi vay, tỷ giá thay đổi; nguyên nhân điều chỉnh giảm là do điều chỉnh thiết kế một số hạng mục.
Cụ thể, lập thiếu chi phí lãi vay trong thời gian xây dựng và các chi phí cần thiết khác theo quy định (ở các tiểu dự án cấp thoát nước tại Đà Lạt, Uông Bí, Mỹ Phước, Ninh Bình, Bỉm Sơn, Phú Quốc);
Chưa tính toán cụ thể chi phí dự phòng cho yếu tố trượt giá (ở các tiểu dự án Mỹ Phước, Ninh Bình); tính chi phí ban quản lý dự án trong tổng mức đầu tư và tổng mức đầu tư điều chỉnh bao gồm thuế VAT (tiểu dự án Ninh Bình) là chưa phù hợp với quy định tại Thông tư 04/2010 của Bộ Xây dựng, với số tiền lần lượt là 235 triệu đồng và 316 triệu đồng.
Về công tác khảo sát, lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán, giá gói thầu, Kiểm toán Nhà nước cũng cho biết việc khảo sát còn chưa sát hiện trạng, địa chất địa hình dẫn đến thực tế phải điều chỉnh khá nhiều.
Việc lập, thẩm định, phê duyệt dự toán cũng có những hạn chế như tiên lượng dự toán thiếu (tiểu dự án Đà Lạt); lập dự toán chưa áp dụng định mức kèm theo Quyết định 1173/QD-BXD ngày 26/12/2012 phần lắp đặt của Bộ Xây dựng làm tăng giá trị dự toán, giá gói thầu được duyệt (tiểu dự án Uông Bí); lập dự toán gói thầu BSWW-07 sai mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp, tính thuế thu nhập doanh nghiệp trên cả phần chi phí bồi hoàn dẫn đến làm tăng giá gói thầu lên 253 triệu đồng (tiểu dự án Bỉm Sơn).
Việc lựa chọn nhà thầu và ký kết hợp đồng được xác định còn tồn tại các vấn đề như: hồ sơ dự thầu chưa đáp ứng yêu cầu về nhân sự chủ chốt, nhà thầu trúng thầu chưa đáp ứng yêu cầu của hồ sơ mời thầu về kinh nghiệm thi công, thực hiện và ký hợp đồng với hình thức hợp đồng trọn gói không đúng theo kế hoạch đấu thầu được duyệt là hợp đồng theo đơn giá và tỷ lệ phần trăm (gói thầu TKWW 03-tiểu dự án Tam Kỳ).
Một số dự án thành phần như tiểu dự án Ninh Bình chậm tiến độ gần 2 năm, gói thầu DLWW-04 thuộc tiểu dự án thoát nước Đà Lạt chậm gần 20 tháng so với hợp đồng gốc, chậm 6 tháng so với phụ lục hợp đồng.
Theo Kiểm toán Nhà nước, công tác quản lý chất lượng công trình còn nhiều thiếu sót như nhật kí thi công công trình không đóng dấu giáp lai của nhà thầu thi công; không ghi cụ thể số lượng máy móc trên công trường; không ghi tên, loại máy móc thiết bị (tiểu dự án Uông Bí, Đà Lạt); bản vẽ hoàn công không thể hiện đầy đủ kích thước, hạng mục phá dỡ vỉa hè, bê tông nền (tiểu dự án Đà Lạt); chưa lập phê duyệt đơn giá và bản vẽ hoàn công công tác lắp đặt ống 40/30 HDPE hạng mục cáp điện (tiểu dự án Đà Lạt) hay lập thiếu bản vẽ hoàn công; thay đổi nhãn hiệu vật tư thiết bị đưa vào công trình so với hồ sơ dự thầu và hợp đồng nhưng chủ đầu tư không đàm phán, điều chỉnh lại giá hợp đồng…
Chế độ quản lý tài chính kế toán còn nhiều thiếu sót
Về việc cấp hành chế độ quản lý tài chính kế toán, báo cáo của Kiểm toán Nhà nước cũng chỉ ra các hạn chế của các dự án như: chưa thực hiện theo dõi riêng đối với lãi tiền gửi từ tài khoản cấp 2 mà hạch toán vào doanh thu tài chính của đơn vị là chưa phù hợp quy định của Thông tư 218/2013 của Bộ Tài chính (tiểu dự án Đà Lạt).
Đơn vị hoàn thuế VAT, khấu trừ thuế VAT vào hoạt động sản xuất kinh doanh đối với phần thuế VAT do phần ngân sách cấp phát để thanh toán cho các nhà thầu là không đúng quy định Thông tư 181/2013 của Bộ Tài chính. Tổng số tiền không đúng là 18,8 tỷ đồng (gồm 18,4 tỷ đồng tại tiểu dự án Đà Lạt và 411 triệu đồng tại tiểu dự án Uông Bí).
Theo dõi hạch tán thiếu trên tài khoản 241 – chi phí đầu tư xây dựng cơ bản chi phí gói thầu BSW với số tiền là 856 triệu đồng (tiểu dự án Mỹ Phước).
Ghi nhận lãi vay trong thời gian xây dựng chưa đúng quy định tại Đoạn 18, Chuẩn
mực số 16 – chi phí đi vay tại quy định Quyết định 165/2002/QĐ-BTC dẫn đến phải giảm trừ chi phí lãi vay không đủ điều kiện vốn hóa là 44,4 tỷ đồng (tiểu dự án Mỹ Phước); tập hợp chi phí lãi vay không chính xác dẫn đến giảm trừ chi phí lãi vay 8,4 tỷ đồng (tiểu dự án Ninh Bình).
Về việc chấp hành chế độ quản lý, sử dụng vốn đầu tư, báo cáo của Kiểm toán Nhà nước cho biết việc thực hiện sử dụng nguồn vốn đến 31/12/2016 tại tiểu dự án Đà Lạt là chưa phù hợp cơ cấu được duyệt.
Tiểu dự án Đà Lạt và Uông Bí cũng chưa lập, phê duyệt kế hoạch vốn hàng năm đối với nguồn vốn vay lại và nguồn vốn đối ứng của đơn vị quy định tại Thông tư 218 của Bộ Tài chính.
Kiến nghị xử lý tài chính 94 tỷ đồng
Với các hạn chế, thiếu sót như trên, Kiểm toán Nhà nước đề nghị các chủ đầu tư và các ban quản lý dự án được kiểm toán cần điều chỉnh sổ kế toán, báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán theo kết luận của Kiểm toán Nhà nước.
Kiểm toán Nhà nước kiến nghị xử lý về tài chính 94 tỷ đồng; trong đó, xử lý về tài chính báo cáo quyết toán dự án 74,2 tỷ đồng (thu hồi nộp ngân sách nhà nước 42,7 triệu đồng; thu hồi về chủ đầu tư 1,4 tỷ đồng; giảm thanh toán 10,9 tỷ đồng; chưa đủ điều kiện thanh, quyết toán 8,8 tỷ đồng; xử lý khác 52,8 tỷ đồng); nộp trả quỹ hoàn thuế VAT 18,8 tỷ đồng; thu hồi vốn ngân sách địa phương bố trí đối ứng không đúng quy định theo quyết định phê duyệt dự án 1 tỷ đồng.
Đối với Công ty TNHH MTV cấp thoát nước Lâm Đồng, Kiểm toán Nhà nước đề nghị công ty thực hiện lập, phê duyệt các hồ sơ pháp lý đối với giá trị chưa đủ điều kiện thanh, quyết toán; phối hợp với nhà thầu và tư vấn giám sát xác định rõ nguyên nhân khách quan và chủ quan về việc chậm tiến độ gói thầu DLWW-04 để có biện pháp xử lý theo quy định của hợp đồng; phối hợp với các đơn vị liên quan có biện pháp khắc phục đẩy nhanh tiến độ, mở rộng công tác đấu nối đưa các tiểu dự án thoát nước vào vận hành khai thác đạt được mục tiêu, tiến độ kế hoạch để phát huy hiệu quả của dự án…
Video: Đổi tiền lẻ, tiền mới: Vi phạm pháp luật vẫn nhộn nhịp
Đối với Công ty Cổ phần nước sạch Quảng Ninh, Kiểm toán Nhà nước yêu cầu hoàn trả ngân sách nhà nước tỉnh Quảng Ninh 1 tỷ đồng; thực hiện lập, phê duyệt các hồ sơ pháp lý đối với giá trị chưa đủ điều kiện thanh, quyết toán; lập hồ sơ quyết toán hoàn thành công trình trình cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định.
Kiểm toán Nhà nước cũng yêu cầu Công ty TNHH MTV Cấp thoát nước Kiên Giang tổ chức kiểm tra, đàm phán với nhà thầu thi công điều chỉnh lại giá trị hợp đồng gói thầu PQWS-03 làm cơ sở để quyết toán hoàn thành với số tiền chưa đủ điều kiện quyết toán là 2,4 tỷ đồng.
Đối với Công ty Cổ phần Nước – Môi trường Bình Dương, Kiểm toán Nhà nước yêu cầu làm việc với Ngân hàng Phát triển Việt Nam để làm rõ các chênh lệch trong việc ghi nhận nguồn vốn vay của WB và là căn cứ để xác định chính xác nguồn vốn, chi phí lãi vay của dự án.
Đối với Công ty Cổ phần Cấp thoát nước Bình Định, Kiểm toán Nhà nước cũng yêu cầu làm việc với Ngân hàng Phát triển Ninh Bình để làm rõ các chênh lệch trong việc ghi nhận nguồn vốn vay của WB và là căn cứ để xác định chính xác nguồn vốn, chi phí lãi vay của dự án.
Ngoài ra, Kiểm toán Nhà nước cũng đề nghị các công ty nước các tỉnh, các ban quản lý dự án chấn chỉnh, rút kinh nghiệm đối với tập thể, cá nhân để xảy ra các thiếu sót, hạn chế trên…
Bình luận