Cách đây 50 năm, ngày 15/10/1964, người thanh niên xứ Quảng 24 tuổi Nguyễn Văn Trỗi làm chấn động thế giới, anh đã đặt bom trên cầu Công Lý, dự định ám sát Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Mắc Na-ma-ra.
Kế hoạch không thành, anh bị bắt và ra đi trong tư thế lẫm liệt, hiên ngang với chỉ 9 phút ngắn ngủi ở pháp trường, nhưng tiếng hô “Hãy nhớ lấy lời tôi” đã thành lời hiệu triệu bao lớp trẻ tiếp tục lên đường đánh giặc.
Tuổi thơ cơ cực và chí lớn
Ngôi nhà của liệt sĩ, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Văn Trỗi ở thôn Thanh Quýt 4, xã Điện Thắng Trung (Điện Bàn, Quảng Nam) được tu sửa khá khang trang, những ngày qua nghi ngút khói hương. Trên ban thờ, ngoài cùng là di ảnh và bức tượng bán thân anh Trỗi bằng đồng; xung quanh tường treo nhiều kỷ vật và những bài báo viết về anh. Mới nhất là bức ảnh chụp tờ báo của Vê-nê-xu-ê-la in hình anh Trỗi ở pháp trường...
Dịp này, căn nhà đông người hơn và chúng tôi may mắn gặp ông Nguyễn Văn Nhung, còn gọi là thầy Năm Nhung, 84 tuổi, là anh họ và cũng là thầy dạy học của anh Trỗi ngày nhỏ. Khi nghe chúng tôi hỏi về anh Trỗi, thầy Năm Nhung cho biết: “Tuổi thơ của Trỗi cơ cực lắm. Cha vào Sài Gòn làm ăn. 4 chị em được mẹ rau cháo nuôi qua ngày. Năm 1947, giặc Pháp quay trở lại, cả nhà dắt díu nhau lên Tý Sé (Dùi Chiêng)-vùng núi của tỉnh Quảng Nam.
Trỗi và em út tên là Đức được mẹ gánh trên hai cái thúng chạy giặc. Nhưng lên trên đó, rừng thiêng nước độc, người làng chết nhiều vì sốt rét, nên mẹ con lại gồng gánh nhau về. Rồi mẹ Trỗi chết vì quá cơ cực, bỏ lại 4 chị em thơ dại. Anh em Trỗi ở với bác ruột, một buổi phụ giúp đồng áng, một buổi đi học".
Thầy Năm Nhung kể tiếp: Trỗi học sáng lắm. Học tới đâu biết tới đó. Sau đó, Trỗi vào Sài Gòn làm nghề thợ điện. Cậu ấy chịu khó, ban ngày làm thợ, ban đêm học lý thuyết ở trường Bá Nghệ, tiến bộ rất nhanh. Lần gặp cuối cùng ở quê, tôi thấy cách nói chuyện của Trỗi đã khác, trông rất ưu tư, nghiêm nghị.
Cậu ấy lấy đinh khắc lên cây cau trước nhà tôi dòng chữ “15/10/1963: Kỷ niệm lần về thăm anh”. Cứ như điềm gở, vì đúng ngày này năm sau thì Trỗi hy sinh. Lúc còn sống, cậy ấy chỉ ao ước đất nước hòa bình, sẽ mở một tiệm sửa đồ điện, cả nhà sống bằng nghề đó.
Theo người thân của anh Trỗi, nhiều năm qua, có rất nhiều đoàn khách quốc tế và trong nước đến nhà thắp hương và ghi kín hai cuốn sổ lưu bút. Địa phương và gia đình đang làm thủ tục đề nghị công nhận ngôi nhà là di tích lịch sử. Chính nơi đây, với ký ức đau buồn từ tuổi thơ, lòng căm thù giặc sâu sắc là khởi nguồn để anh Trỗi sớm giác ngộ cách mạng và bình thản đi vào chỗ hiểm nguy.
Người “dẫn lối” cho gia đình
Ông Nguyễn Văn Toàn, anh trai của Nguyễn Văn Trỗi, nay sức khỏe đã giảm sút nhiều khi bước qua tuổi 85. May mắn là những năm sau này, được sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền TP Đà Nẵng đối với gia đình liệt sĩ, ông đã có mảnh đất khá rộng trên con đường đẹp để xây nhà. Một người con trai của ông được những đồng đội của anh Trỗi trước đây nhận vào làm và có thu nhập khá ổn định ở TP Hồ Chí Minh. Nằm ở Bệnh viện Tâm Trí (Đà Nẵng), ông cứ khóc hoài khi nhắc đến người em trai yêu thương của mình. Ông kể:
"Chúng tôi sớm mồ côi mẹ, nên thương yêu, đùm bọc nhau lắm. Khi tôi ra Đà Nẵng làm công cho một hãng bánh kẹo thì kéo Trỗi từ quê ra học nghề may. Không bao lâu thì Trỗi vào Sài Gòn. Ngày đó, bến sông Hàn có tàu Nam Việt đang chuẩn bị khởi hành. Trỗi lên tàu, sau khi để lại cho tôi lá thư từ biệt lời lẽ tha thiết. Tôi đi làm về, đọc thư thì tàu đã rời bến. Tôi gọi em đến khản cả tiếng, nhưng tàu đã ra giữa dòng. Sau này, Trỗi có về thăm tôi mấy lần, tôi thấy em chững chạc hơn trước rất nhiều, hay nói về cảnh mất nước và những chiến công của biệt động Sài Gòn.
Tuy nhiên, tôi không hề biết việc em tham gia biệt động. Đám cưới Trỗi với Quyên, tôi với cha vào dự và rất vui khi vợ chồng Trỗi hạnh phúc. Về chưa được nửa tháng thì nghe tin Trỗi bị bắt. Vợ tôi bán cặp “lách” vàng là tiền tích cóp bán thuốc ở Cẩm Lệ đưa cho tôi và cha mang vào lo cho Trỗi. Tôi đưa 5000 đồng cho Văn phòng luật sư Hoàng Gia Thụy làm đơn xin ân xá. Về đến nhà, lại nghe thêm tin du kích Vê-nê-xu-ê-la bắt cóc trung tá Mỹ Micheal Smole để đàm phán, buộc chính quyền Mỹ thả Trỗi. Nghe mà mừng.
Vậy mà chúng nó lật lọng đê hèn, bên bạn đã thả tên sĩ quan Mỹ, mà ở Sài Gòn chúng xử bắn em tôi. Cha tôi và thím Quyên đi tìm mộ, tiếp tục lo lót mới được chúng chỉ cho nơi chôn cất”.
Ông Toàn ngừng một lúc rồi kể tiếp: “Cha tôi rất thương thím Quyên, lo từng ly từng tí, muốn được bù đắp cho con dâu vì trước đó ông không có điều kiện chăm sóc Trỗi. Khi mới cưới, Quyên giận hờn chồng gì đó và khóc. Ông già tưởng cô ấy nhớ nhà, bảo Trỗi đưa về nhà cha mẹ ít ngày, cha con tôi trên này tự lo cơm nước.
Khi Quyên từ quê về lại Sài Gòn, ông bảo tôi mua vé máy bay cho em nó đi, chứ đi xe một mình không an tâm được. Ông cũng là người ủng hộ thím Quyên tái giá, sau 9 năm ngày Trỗi hy sinh. Ngay cả chuyện sau giải phóng, gia đình muốn đưa hài cốt Trỗi về quê, cha tôi có thể quyết định được, nhưng ông tôn trọng ý nguyện của thím Quyên, nên vẫn để em tôi ở Sài Gòn, hằng năm vào hương khói”.
Căm thù giặc Mỹ, những năm chiến tranh, ông Nguyễn Văn Toàn đã chặt hai ngón chân để không bị bắt đi lính ngụy quyền. Hai người em là Nguyễn Văn Đức và Nguyễn Văn Dũng đang đi học, cũng thoát ly theo cách mạng. Đức đi công an, được đưa ra Bắc học tập, nhưng nằng nặc xin về quê chiến đấu trả thù cho anh và đã hy sinh năm 1972.
Cụ Thoàng, bố anh Trỗi thì kiên cường ai cũng nể. Bị đánh đập tra khảo, thường xuyên bị theo dõi mà ông vẫn đào 3 hầm bí mật trong vườn nhà, nuôi giấu du kích, là chỗ dựa vững chắc cho cán bộ yên tâm đi về hoạt động. Ông mất năm 1995, không kịp chứng kiến lễ đón danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân của anh Trỗi.
Nỗi niềm người vợ
Người vợ tuổi 20 của anh Trỗi năm nào, nay tóc đã điểm bạc, hiện ở quận 2, TP Hồ Chí Minh. Bà Phan Thị Quyên kể về quê hương anh hùng Nguyễn Văn Trỗi với tình cảm thật đặc biệt. Giọng nói của bà rất trẻ, ngữ âm miền Nam, nhưng vẫn phảng phất gốc Bắc của gia đình.
Lần về quê đầu tiên là đúng một tuần sau khi anh Trỗi hy sinh. Về quê vài ngày, chưa kịp đi chào hỏi hết bà con thì trận lụt lịch sử năm Thìn ập đến. Nước dâng quá đầu người. Cả nhà kê mấy vạt giường lên gác, ăn tạm trái mít do chú Đức hái được, cầm cự đến mấy ngày với lũ. Có ở đây, bà mới thấm thía tình quê trong tâm hồn anh Trỗi.
Đã ngót nửa thế kỷ, nhưng bà vẫn nhớ như in, qua giới thiệu của người chị làm cùng ở Hãng bông Bạch Tuyết, bà và anh Trỗi quen nhau. Lần đầu đàn, hát cho bà nghe, anh Trỗi thật thà: “Anh nói giọng Sài Gòn cho Quyên dễ nghe. Nhưng anh sẽ hát bằng giọng Quảng”. Ra đi từ gian khó, anh không biết nói những lời hay ý đẹp, nhưng lại quan tâm tặng bà hộp dầu khi cảm lạnh, nhắc mang theo khăn khi đi xa, đừng mải việc mà quên ăn uống. Chính vì thế mà bà yêu…
Ở Thanh Quýt năm đó, có nhiều du kích địa phương đến thăm bà, đề nghị sẽ móc nối để bà lên cứ. Nhưng ông già Thoàng không chịu, bảo phải viết thư xin phép cha mẹ trong ấy, đồng ý mới đi, vì ông đã hứa với thông gia chỉ đưa Quyên ra mấy ngày. Bà viết thư và chờ không thấy cha mẹ trả lời, nên vào lại Sài Gòn, sau đó thì được ra Bắc.
Trong câu chuyện với bà, chúng tôi bày tỏ quan tâm, liệu gia đình có đưa hài cốt anh Trỗi về Điện Bàn, bởi hiện nay Nhà Lưu niệm anh bên Nghĩa trang liệt sĩ Điện Bàn đã được đầu tư, sửa sang rất khang trang. Nghe chúng tôi hỏi vậy, giọng bà bỗng chùng xuống, nghèn nghẹn: “Cháu thấy đó, anh Trỗi hy sinh, cũng đã 3 lần cất bốc.
Lần đầu tiên là ở Nghĩa trang Cộng Hòa, rồi bốc về chôn ở Nghĩa trang Đô Thành; 3 năm sau, gia đình “sang cát”, đưa anh về Nghĩa trang gia tộc Văn Giáp. Anh ở đây đã 47 năm, trở thành địa chỉ quen thuộc của thanh thiếu niên quận 2 và TP Hồ Chí Minh.
Mới đây, thanh niên phường Bình Trưng Đông, quận 2 còn góp công làm con đường bê tông dẫn vào mộ anh. Nghe đâu, trên sắp quy hoạch khu nghĩa trang này thành công viên. Ý nguyện của tuổi trẻ quận 2 đã trình lên trên và cũng là ý nguyện của tôi muốn để nguyên mộ anh ở đây, trong quần thể công viên.
Tiếp bước anh lên đường
Sau khi anh Trỗi hy sinh, xã Điện Thắng đã coi người con ưu tú của mình là anh hùng. Mặc dù bọn hội đồng theo dõi rất chặt, nhưng Đảng ủy, du kích và nhân dân vẫn đến thắp hương, thăm hỏi, động viên chị Quyên và gia đình. Xã phát động đợt tòng quân theo gương anh hùng Nguyễn Văn Trỗi chiến đấu giải phóng quê hương.
Hơn 30 thanh niên đã thoát ly vào bộ đội chủ lực. Cả xã ai cũng là du kích, ai cũng là cơ sở cách mạng khiến địch rất khiếp sợ. Tiêu biểu là trận đánh vào đồn Ngũ Giáp giữa ban ngày của du kích làng Viêm Tây trả thù cho anh Trỗi. Đến năm 1965, cả tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng rầm rộ phát động hàng chục điểm tòng quân Nguyễn Văn Trỗi, tạo khí thế sâu rộng chưa từng có trong thanh niên lúc bấy giờ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Vì Tổ quốc, vì nhân dân, Nguyễn Văn Trỗi đã anh dũng đấu tranh chống đế quốc Mỹ đến hơi thở cuối cùng. Chí khí lẫm liệt của Anh hùng Trỗi là một tấm gương cách mạng sáng ngời cho mọi người yêu nước, nhất là các cháu thanh thiếu niên học tập”.
Đây cũng là nội dung trong kế hoạch kỷ niệm 50 năm ngày anh Trỗi hy sinh của huyện Điện Bàn. Phó Chủ tịch UBND huyện Cao Thanh Tấn cho biết: UBND huyện đã phối hợp với Tỉnh đoàn, Hội LHTN tỉnh Quảng Nam có nhiều hoạt động tưởng niệm 50 năm ngày anh Trỗi hy sinh.
Ngoài lễ tưởng niệm, dâng hương trang trọng vào ngày 15/10, tại Nghĩa trang liệt sĩ Điện Bàn, huyện mở cuộc thi tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi; phát động phong trào thi đua trong tuổi trẻ và công nhân viên chức của huyện; đoàn viên, thanh niên đăng ký thực hiện các công trình, phần việc nhân kỷ niệm 50 năm ngày anh Trỗi hy sinh.
Anh Tấn xúc động: “50 năm đã qua, đất nước đã hòa bình thống nhất như mơ ước ngày nào của anh Trỗi. Cũng suốt 50 năm qua, trong con tim, khối óc của lớp lớp thế hệ cán bộ, nhân dân địa phương, lúc nào cũng vọng mãi lời anh”.
Theo QĐND
Tuổi thơ cơ cực và chí lớn
Ngôi nhà của liệt sĩ, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Văn Trỗi ở thôn Thanh Quýt 4, xã Điện Thắng Trung (Điện Bàn, Quảng Nam) được tu sửa khá khang trang, những ngày qua nghi ngút khói hương. Trên ban thờ, ngoài cùng là di ảnh và bức tượng bán thân anh Trỗi bằng đồng; xung quanh tường treo nhiều kỷ vật và những bài báo viết về anh. Mới nhất là bức ảnh chụp tờ báo của Vê-nê-xu-ê-la in hình anh Trỗi ở pháp trường...
Dịp này, căn nhà đông người hơn và chúng tôi may mắn gặp ông Nguyễn Văn Nhung, còn gọi là thầy Năm Nhung, 84 tuổi, là anh họ và cũng là thầy dạy học của anh Trỗi ngày nhỏ. Khi nghe chúng tôi hỏi về anh Trỗi, thầy Năm Nhung cho biết: “Tuổi thơ của Trỗi cơ cực lắm. Cha vào Sài Gòn làm ăn. 4 chị em được mẹ rau cháo nuôi qua ngày. Năm 1947, giặc Pháp quay trở lại, cả nhà dắt díu nhau lên Tý Sé (Dùi Chiêng)-vùng núi của tỉnh Quảng Nam.
Trỗi và em út tên là Đức được mẹ gánh trên hai cái thúng chạy giặc. Nhưng lên trên đó, rừng thiêng nước độc, người làng chết nhiều vì sốt rét, nên mẹ con lại gồng gánh nhau về. Rồi mẹ Trỗi chết vì quá cơ cực, bỏ lại 4 chị em thơ dại. Anh em Trỗi ở với bác ruột, một buổi phụ giúp đồng áng, một buổi đi học".
Thầy Năm Nhung kể tiếp: Trỗi học sáng lắm. Học tới đâu biết tới đó. Sau đó, Trỗi vào Sài Gòn làm nghề thợ điện. Cậu ấy chịu khó, ban ngày làm thợ, ban đêm học lý thuyết ở trường Bá Nghệ, tiến bộ rất nhanh. Lần gặp cuối cùng ở quê, tôi thấy cách nói chuyện của Trỗi đã khác, trông rất ưu tư, nghiêm nghị.
Cậu ấy lấy đinh khắc lên cây cau trước nhà tôi dòng chữ “15/10/1963: Kỷ niệm lần về thăm anh”. Cứ như điềm gở, vì đúng ngày này năm sau thì Trỗi hy sinh. Lúc còn sống, cậy ấy chỉ ao ước đất nước hòa bình, sẽ mở một tiệm sửa đồ điện, cả nhà sống bằng nghề đó.
Theo người thân của anh Trỗi, nhiều năm qua, có rất nhiều đoàn khách quốc tế và trong nước đến nhà thắp hương và ghi kín hai cuốn sổ lưu bút. Địa phương và gia đình đang làm thủ tục đề nghị công nhận ngôi nhà là di tích lịch sử. Chính nơi đây, với ký ức đau buồn từ tuổi thơ, lòng căm thù giặc sâu sắc là khởi nguồn để anh Trỗi sớm giác ngộ cách mạng và bình thản đi vào chỗ hiểm nguy.
Anh Nguyễn Văn Trỗi và vợ sau ngày cưới. Ảnh tư liệu. |
Người “dẫn lối” cho gia đình
Ông Nguyễn Văn Toàn, anh trai của Nguyễn Văn Trỗi, nay sức khỏe đã giảm sút nhiều khi bước qua tuổi 85. May mắn là những năm sau này, được sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền TP Đà Nẵng đối với gia đình liệt sĩ, ông đã có mảnh đất khá rộng trên con đường đẹp để xây nhà. Một người con trai của ông được những đồng đội của anh Trỗi trước đây nhận vào làm và có thu nhập khá ổn định ở TP Hồ Chí Minh. Nằm ở Bệnh viện Tâm Trí (Đà Nẵng), ông cứ khóc hoài khi nhắc đến người em trai yêu thương của mình. Ông kể:
"Chúng tôi sớm mồ côi mẹ, nên thương yêu, đùm bọc nhau lắm. Khi tôi ra Đà Nẵng làm công cho một hãng bánh kẹo thì kéo Trỗi từ quê ra học nghề may. Không bao lâu thì Trỗi vào Sài Gòn. Ngày đó, bến sông Hàn có tàu Nam Việt đang chuẩn bị khởi hành. Trỗi lên tàu, sau khi để lại cho tôi lá thư từ biệt lời lẽ tha thiết. Tôi đi làm về, đọc thư thì tàu đã rời bến. Tôi gọi em đến khản cả tiếng, nhưng tàu đã ra giữa dòng. Sau này, Trỗi có về thăm tôi mấy lần, tôi thấy em chững chạc hơn trước rất nhiều, hay nói về cảnh mất nước và những chiến công của biệt động Sài Gòn.
Tuy nhiên, tôi không hề biết việc em tham gia biệt động. Đám cưới Trỗi với Quyên, tôi với cha vào dự và rất vui khi vợ chồng Trỗi hạnh phúc. Về chưa được nửa tháng thì nghe tin Trỗi bị bắt. Vợ tôi bán cặp “lách” vàng là tiền tích cóp bán thuốc ở Cẩm Lệ đưa cho tôi và cha mang vào lo cho Trỗi. Tôi đưa 5000 đồng cho Văn phòng luật sư Hoàng Gia Thụy làm đơn xin ân xá. Về đến nhà, lại nghe thêm tin du kích Vê-nê-xu-ê-la bắt cóc trung tá Mỹ Micheal Smole để đàm phán, buộc chính quyền Mỹ thả Trỗi. Nghe mà mừng.
Vậy mà chúng nó lật lọng đê hèn, bên bạn đã thả tên sĩ quan Mỹ, mà ở Sài Gòn chúng xử bắn em tôi. Cha tôi và thím Quyên đi tìm mộ, tiếp tục lo lót mới được chúng chỉ cho nơi chôn cất”.
Ông Toàn ngừng một lúc rồi kể tiếp: “Cha tôi rất thương thím Quyên, lo từng ly từng tí, muốn được bù đắp cho con dâu vì trước đó ông không có điều kiện chăm sóc Trỗi. Khi mới cưới, Quyên giận hờn chồng gì đó và khóc. Ông già tưởng cô ấy nhớ nhà, bảo Trỗi đưa về nhà cha mẹ ít ngày, cha con tôi trên này tự lo cơm nước.
Khi Quyên từ quê về lại Sài Gòn, ông bảo tôi mua vé máy bay cho em nó đi, chứ đi xe một mình không an tâm được. Ông cũng là người ủng hộ thím Quyên tái giá, sau 9 năm ngày Trỗi hy sinh. Ngay cả chuyện sau giải phóng, gia đình muốn đưa hài cốt Trỗi về quê, cha tôi có thể quyết định được, nhưng ông tôn trọng ý nguyện của thím Quyên, nên vẫn để em tôi ở Sài Gòn, hằng năm vào hương khói”.
Căm thù giặc Mỹ, những năm chiến tranh, ông Nguyễn Văn Toàn đã chặt hai ngón chân để không bị bắt đi lính ngụy quyền. Hai người em là Nguyễn Văn Đức và Nguyễn Văn Dũng đang đi học, cũng thoát ly theo cách mạng. Đức đi công an, được đưa ra Bắc học tập, nhưng nằng nặc xin về quê chiến đấu trả thù cho anh và đã hy sinh năm 1972.
Cụ Thoàng, bố anh Trỗi thì kiên cường ai cũng nể. Bị đánh đập tra khảo, thường xuyên bị theo dõi mà ông vẫn đào 3 hầm bí mật trong vườn nhà, nuôi giấu du kích, là chỗ dựa vững chắc cho cán bộ yên tâm đi về hoạt động. Ông mất năm 1995, không kịp chứng kiến lễ đón danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân của anh Trỗi.
Nỗi niềm người vợ
Người vợ tuổi 20 của anh Trỗi năm nào, nay tóc đã điểm bạc, hiện ở quận 2, TP Hồ Chí Minh. Bà Phan Thị Quyên kể về quê hương anh hùng Nguyễn Văn Trỗi với tình cảm thật đặc biệt. Giọng nói của bà rất trẻ, ngữ âm miền Nam, nhưng vẫn phảng phất gốc Bắc của gia đình.
Lần về quê đầu tiên là đúng một tuần sau khi anh Trỗi hy sinh. Về quê vài ngày, chưa kịp đi chào hỏi hết bà con thì trận lụt lịch sử năm Thìn ập đến. Nước dâng quá đầu người. Cả nhà kê mấy vạt giường lên gác, ăn tạm trái mít do chú Đức hái được, cầm cự đến mấy ngày với lũ. Có ở đây, bà mới thấm thía tình quê trong tâm hồn anh Trỗi.
Đã ngót nửa thế kỷ, nhưng bà vẫn nhớ như in, qua giới thiệu của người chị làm cùng ở Hãng bông Bạch Tuyết, bà và anh Trỗi quen nhau. Lần đầu đàn, hát cho bà nghe, anh Trỗi thật thà: “Anh nói giọng Sài Gòn cho Quyên dễ nghe. Nhưng anh sẽ hát bằng giọng Quảng”. Ra đi từ gian khó, anh không biết nói những lời hay ý đẹp, nhưng lại quan tâm tặng bà hộp dầu khi cảm lạnh, nhắc mang theo khăn khi đi xa, đừng mải việc mà quên ăn uống. Chính vì thế mà bà yêu…
Ở Thanh Quýt năm đó, có nhiều du kích địa phương đến thăm bà, đề nghị sẽ móc nối để bà lên cứ. Nhưng ông già Thoàng không chịu, bảo phải viết thư xin phép cha mẹ trong ấy, đồng ý mới đi, vì ông đã hứa với thông gia chỉ đưa Quyên ra mấy ngày. Bà viết thư và chờ không thấy cha mẹ trả lời, nên vào lại Sài Gòn, sau đó thì được ra Bắc.
Trong câu chuyện với bà, chúng tôi bày tỏ quan tâm, liệu gia đình có đưa hài cốt anh Trỗi về Điện Bàn, bởi hiện nay Nhà Lưu niệm anh bên Nghĩa trang liệt sĩ Điện Bàn đã được đầu tư, sửa sang rất khang trang. Nghe chúng tôi hỏi vậy, giọng bà bỗng chùng xuống, nghèn nghẹn: “Cháu thấy đó, anh Trỗi hy sinh, cũng đã 3 lần cất bốc.
Lần đầu tiên là ở Nghĩa trang Cộng Hòa, rồi bốc về chôn ở Nghĩa trang Đô Thành; 3 năm sau, gia đình “sang cát”, đưa anh về Nghĩa trang gia tộc Văn Giáp. Anh ở đây đã 47 năm, trở thành địa chỉ quen thuộc của thanh thiếu niên quận 2 và TP Hồ Chí Minh.
Mới đây, thanh niên phường Bình Trưng Đông, quận 2 còn góp công làm con đường bê tông dẫn vào mộ anh. Nghe đâu, trên sắp quy hoạch khu nghĩa trang này thành công viên. Ý nguyện của tuổi trẻ quận 2 đã trình lên trên và cũng là ý nguyện của tôi muốn để nguyên mộ anh ở đây, trong quần thể công viên.
Tiếp bước anh lên đường
Sau khi anh Trỗi hy sinh, xã Điện Thắng đã coi người con ưu tú của mình là anh hùng. Mặc dù bọn hội đồng theo dõi rất chặt, nhưng Đảng ủy, du kích và nhân dân vẫn đến thắp hương, thăm hỏi, động viên chị Quyên và gia đình. Xã phát động đợt tòng quân theo gương anh hùng Nguyễn Văn Trỗi chiến đấu giải phóng quê hương.
Hơn 30 thanh niên đã thoát ly vào bộ đội chủ lực. Cả xã ai cũng là du kích, ai cũng là cơ sở cách mạng khiến địch rất khiếp sợ. Tiêu biểu là trận đánh vào đồn Ngũ Giáp giữa ban ngày của du kích làng Viêm Tây trả thù cho anh Trỗi. Đến năm 1965, cả tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng rầm rộ phát động hàng chục điểm tòng quân Nguyễn Văn Trỗi, tạo khí thế sâu rộng chưa từng có trong thanh niên lúc bấy giờ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Vì Tổ quốc, vì nhân dân, Nguyễn Văn Trỗi đã anh dũng đấu tranh chống đế quốc Mỹ đến hơi thở cuối cùng. Chí khí lẫm liệt của Anh hùng Trỗi là một tấm gương cách mạng sáng ngời cho mọi người yêu nước, nhất là các cháu thanh thiếu niên học tập”.
Đây cũng là nội dung trong kế hoạch kỷ niệm 50 năm ngày anh Trỗi hy sinh của huyện Điện Bàn. Phó Chủ tịch UBND huyện Cao Thanh Tấn cho biết: UBND huyện đã phối hợp với Tỉnh đoàn, Hội LHTN tỉnh Quảng Nam có nhiều hoạt động tưởng niệm 50 năm ngày anh Trỗi hy sinh.
Ngoài lễ tưởng niệm, dâng hương trang trọng vào ngày 15/10, tại Nghĩa trang liệt sĩ Điện Bàn, huyện mở cuộc thi tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi; phát động phong trào thi đua trong tuổi trẻ và công nhân viên chức của huyện; đoàn viên, thanh niên đăng ký thực hiện các công trình, phần việc nhân kỷ niệm 50 năm ngày anh Trỗi hy sinh.
Anh Tấn xúc động: “50 năm đã qua, đất nước đã hòa bình thống nhất như mơ ước ngày nào của anh Trỗi. Cũng suốt 50 năm qua, trong con tim, khối óc của lớp lớp thế hệ cán bộ, nhân dân địa phương, lúc nào cũng vọng mãi lời anh”.
Theo QĐND
Bình luận