Video: Những thước phim quý giá về phi công huyền thoại Nguyễn Văn Bảy.
Mùa hè năm 1966, không quân Mỹ mở các cuộc không kích đều đặn nhằm vào Hà Nội, Hải Phòng và các trung tâm công nghiệp, quân sự ở miền bắc Việt Nam. Trong thời kỳ này về phía Việt Nam đã có sự tham chiến của các máy bay tiêm kích MiG-21.
Trong khi đó ông Nguyễn Văn Bảy lại bắn hạ thêm một máy bay Mỹ nữa (một chiếc F-105) vào tháng 6/1966.
Phân tích thế mạnh của địch và ta
Suy nghĩ của phi công Nguyễn Văn Bảy và các đồng chí của mình về các máy bay Mỹ không ngừng xâm nhập bầu trời miền Bắc như sau: “Máy bay Mỹ được trang bị tốt. Vừa hiện đại hơn, lại vừa đông hơn. Chúng tôi đều ý thức được sức mạnh của họ. Nhưng điểm yếu của họ là bay từ xa tới. Tất cả bọn họ đều cảm thấy bị hàng ngàn cặp mắt theo dõi và bị hàng ngàn họng súng từ mặt đất chĩa vào. Họ không thể tập trung 100% sự chú ý vào máy bay của chúng tôi. Do vậy, chúng tôi thường phát hiện ra họ trước khi họ kịp phát hiện ra chúng tôi”.
Ông Bảy giải thích thêm về chiến thuật của mình với viên phi công Mỹ Ralph Wetterhahn khi ông này quay trở lại Việt Nam: “Điều quan trọng nhất là phải phát hiện địch đầu tiên, nhằm giành tốc độ và độ cao lớn hơn, để chiếm thế tốt hơn. Chúng tôi học nhiều bài học và nghiên cứu nhiều trận cận chiến trên không nổi tiếng trong Thế chiến 2 giữa phi công Liên Xô và Đức cũng như các trận không chiến ở Thái Bình Dương sử dụng máy bay cánh quạt và pháo. Ai nổ súng trước, bên đó giành chiến thắng”.
Lợi thế nữa của các phi công Không quân Nhân dân Việt Nam trong việc phát hiện đối phương là sự trợ giúp từ các hệ thống radar đánh chặn kiểm soát mặt đất (GCI) bố trí ở ngoại thành Hà Nội và gần với bờ biển sát Hải Phòng. Radar cung cấp cho các sĩ quan dẫn đường một bức tranh về các trận không chiến diễn ra dần. Sĩ quan kiểm soát mặt đất ra lệnh cất cánh và ngăn tên lửa đất đối không (SAM) của Việt Nam không bắn vào máy bay của không quân Việt Nam. Họ là người ra quyết định cuối cùng về việc có tung máy bay vào trận hay không.
Tuy nhiên trong lúc chiến đấu ác liệt và phức tạp , đôi lúc dẫn đường cũng bị nhầm lẫn, dẫn tới tình trạng tên lửa SAM được phóng lên và nổ sát máy bay Việt Nam khiến phi công phải nhảy dù.
Đánh nhanh diệt gọn trong 45 giây
Vào ngày 5/9/1966, sĩ quan kiểm soát mặt đất Lê Thành Chơn dẫn đường cho phi công Nguyễn Văn Bảy và số 2 Võ Văn Mẫn xuất kích từ sân bay Gia Lâm vào lúc 16h hướng tới một mục tiêu chưa rõ về phía nam. Trong lúc bay, ông Bảy phát hiện một phi đội cường kích A-4 đang bay khỏi một cây cầu bốc khói. Ngay phía trước mặt ông, ông phát hiện 2 chiếc F-8 đang tiếp cận A-4 từ bên phải một đám mây tích lớn hướng về nơi mà cả phi công Bảy và Mẫn đang bay tới.
Các máy bay MiG liền vứt bỏ thùng nhiên liệu phụ để chuẩn bị tác chiến.
Ông Bảy nói: “Máy bay F-8 hướng về phía A-4 và chiếm lĩnh vị trí phía sau để hộ tống chúng rời khỏi mục tiêu”. Toàn bộ đám máy bay Mỹ này bắt đầu di chuyển xung quanh gờ phía trái của đám mây.
Sĩ quan Chơn phát hiện tất cả các diễn biến này trên radar GCI. Ông ra lệnh cho ông Bảy tiếp tục bay về phía trước, lướt qua cạnh bên phải của đám mây và cho phép ông Bảy giao chiến.
Nguyễn Văn Bảy tấn công F-8 phía sau. Ông nhớ lại: “Tôi phóng 2 luồng đạn vạch đường, phát thứ 2 ở cự ly 80-100m... Tôi theo dõi luồng đạn vạch đường và điều chỉnh đường ngắm. Loạt đạn pháo đánh trúng chiếc phi cơ Crusader ở gần vòm kính. Máy bay đó bắt đầu vỡ ra. Các mảnh vỡ bay ngược về phía tôi”.
Ông Bảy kéo cần lái thoát ly rồi cơ động cho luồng đạn thứ 3 thì thấy phi công F-8 nhảy dù còn máy bay F-8 rơi xuống. Trận chiến kéo dài 45 giây.
Giữa vòng vây của máy bay địch
Vài tuần sau đó, vào ngày 21/9/1966, phi công Nguyễn Văn Bảy gặp khó khăn lớn. Ông Bảy được kiểm soát dẫn đường tới mục tiêu cách biên đội của ông 16km. Biên đội gồm 4 máy bay do ông Bảy dẫn đầu. Sau khoảng 7 phút, ông Bảy nhìn thấy 2 phi cơ F-105 ở độ cao 3-4km. Ông Bảy nghiêng cánh đuổi theo mục tiêu. Biết rằng máy bay Thunderchief thường bay theo phi đội 4 chiếc, ông Bảy nhìn khắp bầu trời để tìm những chiếc còn lại. Thường thì dễ phát hiện máy bay này nhưng lần đó ông không thấy cái nào khác cả. Thế là ông yên tâm để cho số 2 trong biên đội, Đỗ Huy Hoàng, thực hiện tấn công một trong 2 chiếc F-105 bị phát hiện. Chiến thuật của không quân Việt Nam linh hoạt cho phép số 2 độc lập tác chiến khi điều kiện cho phép.
Phi công Hoàng bay giãn rộng ra bên trái, gióng về phía sau chiếc F-105 thứ hai và cùng với ông Bảy đợi các “con mồi” thực hiện rẽ.
Nhưng lúc đó, ngay phía sau chiếc F-15 đi đầu là 2 máy bay Mỹ do các phi công Karl Richter và Ralph J. Beardsley điều khiển. Các máy bay này bay rất thấp nên không bị radar GCI phát hiện.
Trong lúc chiếc F-105 đi đầu tìm các bãi tên lửa SAM để tấn công thì hai phi công còn lại chuẩn bị nối đuôi tấn công mục tiêu.
Và cũng khi đó, Richter phát hiện ra 2 chiếc MiG, cách ông ta khoảng 2,4-3,2km. Richter đã chớp cơ hội để nhả đạn 20mm liên hồi với tốc độ 100 viên/giây vào máy bay MiG.
Máy bay của phi công Hoàng trúng đạn. Ông Hoàng bình tĩnh cố gắng giữ thăng bằng cho máy bay. Richter nhả đạn một lần nữa. Lần này thì máy bay của ông Hoàng bắt đầu vỡ tung. Phi công Hoàng bị đau ở sườn và lưng. Ông cố với tay đến cần gạt bật dù, nằm ở giữa 2 chân.
Đúng lúc Richter hết đạn thì cánh phải của máy bay MiG do ông Hoàng lái bung ra. Khi Richter vọt lên để tránh mảnh vỡ thì ông ta thấy phi công MiG đã nhảy dù. Thế rồi 2 chiếc F-105 bay vút đi với tốc độ nhanh.
Cùng lúc đó, một phi đội F-4 lâm chiến. Một mình phi công Nguyễn Văn Bảy phải tránh hết quả tên lửa này đến tên lửa khác. Ông Bảy phải ngoặt đột ngột liên lục để vô hiệu hóa các đòn tên lửa của đối phương nhưng điều này lại khiến máy bay của ông mất độ cao và cạn nhiên liệu.
Ông Bảy nhớ lại: “Tôi có thể tránh được tên lửa, nhưng trong một tình thế rất khó khăn. Nhiên liệu gần hết. Ban đầu tôi định nhảy dù nhưng khi xuống thấp hơn tôi đột nhiên thấy máy bay Mỹ bay đi. Sau đó tôi thấy Võ Văn Mẫn ở phía trước tôi. Tôi bay theo Mẫn hạ cánh an toàn”.
Trong khi đó phi công Hoàng hạ cánh trên một cánh đồng lúa và bị thương, không đi được. (Sau này khi hồi phục, ông chuyển sang lái MiG-21).
Sau đó trong 4 tháng đầu năm 1967, Nguyễn Văn Bảy bắn hạ thêm 3 máy bay Mỹ nữa và nâng tổng số máy bay Mỹ bị ông bắn rơi lên thành 7 chiếc. Tiếng tăm ông nổi lên như cồn. Ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh quý mến và thường được dùng cơm với lãnh tụ.
(Còn nữa)
Bình luận