Võ Trường Toản quê ở làng Hòa Hưng, huyện Bình Dương, Gia Định (nay là hai bên đường Cách Mạng Tháng Tám ở quận 3 và 10 của TP.HCM), sống vào thế kỷ 18, chưa rõ năm sinh.
Sách Đại Nam nhất thống chí có ghi tổ tiên Võ Trường Toản nguồn gốc từ miền Trung di cư vào Nam theo làn sóng chung, được khởi phát mạnh mẽ kể từ năm 1623. Đây cũng là thời điểm người Việt chính thức vào xứ Đồng Nai, Gia Định lập nghiệp.
Địa chí Bến Tre cũng ghi lại: "Võ Trường Toản là người huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, không ai rõ năm sinh, không rõ gốc gác, chỉ biết cụ là một nhà nho lớn, một nhà giáo đức độ tài ba, lỗi lạc ở miền Nam thế kỷ 18".
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu trong cuốn Tạp ghi Việt - Sử - Địa cho rằng, Võ tiên sinh không làm quan cả Tây Sơn lẫn chúa Nguyễn. Ông sống ẩn dật với chính quyền nhưng không ẩn dật với xã hội.
Võ Trường Toản mở trường dạy học hàng trăm học sinh mà khuôn viên nay là đình Chí Hòa trong con hẻm đường Cách Mạng Tháng Tám, quận 10.
Là một nhà nho, nhưng ông không rơi vào lối dạy máy móc, giáo điều mà chủ trương lấy lối học "nghĩa lý để giáo hóa". Khi giảng với học trò về sách Đại học, một sách trong Tứ thư, ông nói rõ: "Sách Đại học một nghìn bảy trăm chữ, tán ra gồm vô số sự vật, tóm lại còn 200 chữ, tóm nữa thì còn một chữ, tóm lại nữa một chữ cũng không".
Đại ý, thầy căn dặn học trò cần thấu triệt nội dung cuốn sách chứ không nên học vẹt từng câu, từng chữ, cách dạy ấy thường gọi là "Tri ngôn dưỡng khí". Tri ngôn là hiểu lời, còn dưỡng khí là nuôi dưỡng khí phách, muốn có được khí phách phải tập nghĩa, tức là làm việc nghĩa, cống hiến hết mình cho nghĩa lớn.
Phan Thanh Giản - danh sĩ triều Nguyễn viết về Võ Trường Toản: "Chỉ biết sở học của tiên sinh đã tới bậc dày dặn, đầy đủ, chất thật và có thuật nghiệp thâm uyên, thông đạt. Ở ẩn mở trường dạy học, thường học trò đến mấy trăm người".
Gia Định tam bảo là ba người nổi tiếng ở cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 đều là học trò của Võ Trường Toản, gồm Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tĩnh. Thơ văn của họ được in thành sách Gia Định tam gia thi cập còn truyền đến nay.
Trong khi đó, nhóm thi văn tao đàn Hội Sơn ở Sài Gòn xưa cũng từng theo học nhà giáo này gồm: Chỉ Sơn Trịnh Hoài Đức, Hối Sơn Phạm Ngọc Uẩn, Nhữ Sơn Ngô Nhơn Tĩnh, Kỳ Sơn Diệp Minh Phụng.
Từ những học trò đỗ đạt cao sang ấy cho đến những người thuộc thế hệ sau như Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Mẫn Đạt, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Trương Định, Nguyễn Hữu Huân... đều đã chịu ảnh hưởng về đạo đức, học phong, sĩ khí của nhà giáo Võ Trường Toản. Họ đã giữ tròn tiết tháo khi nước nhà bị xâm lược.
Không chỉ là nhà giáo, Võ Trường Toản còn là một nhà thơ lớn. Tuy nhiên, do những biến cố lịch sử nên sáng tác của ông gần như bị thất lạc, chỉ còn lưu giữ một bài phú "Hoài cổ" với 24 đối câu.
"Rỡ rỡ cúc ba thu, ba thu lụn cúc đà tàn héo; hây hây sen chín hạ, chín hạ qua sen cũng rã rời.
Cho hay vực thẳm nên cồn; khá biết gò cao hóa bể.
Quán âm dương rước khách xưa nay, đã mấy mươi năm; đò tạo hóa đưa người qua lại, biết bao nhiêu chuyến.
Nhấp nháy ngọn đèn trong kiếng, lênh đênh bóng nguyệt dòng sông..."
Những điển tích, hình ảnh trong bài phú đều xuất phát từ Trung Hoa. Tác giả muốn ký thác vào đó tâm sự cùng quan niệm về đời, về người mà ông đã chứng kiến trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động.
Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Công Tín trong Văn chương miền sông nước Nam Bộ, bài phú không có nghĩa là nuối tiếc cái xưa; sống ở hiện tại mà nhớ về quá khứ đâu đâu. Ở đây, nhà thơ muốn "ôn chuyện cũ" để giáo huấn người đời "lòng nhân nghĩa".
Trong sự thăng trầm, biến đổi xã hội, chỉ có lòng nhân nghĩa mới là cái trường tồn đích thực. Bởi vậy, con người phải quyết tâm gìn giữ.
Võ Trường Toản mất vào mùng 9 tháng 5 năm Nhâm Tý (nhằm 27/7/1792) tại làng Hòa Hưng, được an táng tại đây. Hay tin này, chúa Nguyễn Ánh cảm mến, tiếc thương, ban từ hiệu là "Gia Định xử sĩ Sùng Đức Võ tiên sinh", nghĩa là bậc xử sĩ Võ Tiên Sinh, người Gia Định cùng đôi liễn truy điệu:
"Triều hữu huân danh, bán thuộc Hà Phần cựu học
Đẩu Nam phong giáo, tề khâm Nhạc Lộc dư uy"
Tạm hiểu là:
"Công danh tỏ rạng triều đình, một nửa thuộc về tài học,
Giáo dục văn hóa phương Nam, ai cũng phục cái uy lớn."
Dù không phải là học trò của Võ Trường Toản nhưng Phan Thanh Giản hết lòng kính trọng ông như thầy. Khi ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ rơi vào tay Pháp (1862), Phan Thanh Giản không muốn hài cốt của bậc danh nhân nằm trong vùng đất bị giặc chiếm đóng nên bàn với Nguyễn Thông (đốc học Vĩnh Long), Phạm Hữu Chánh (Hiệp trấn thành An Giang) cùng nhiều sĩ phu khác bàn việc cải táng hài cốt.
Năm Tự Đức thứ 18 (1867), hài cốt của Võ Trường Toản được rước về làng Bảo Thạnh, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc huyện Ba Tri, Bến Tre). Di hài vợ cùng con gái cũng được cải táng cạnh mộ của ông, được công nhận là di tích cấp quốc gia năm 1998.
Võ Trường Toản không ra làm quan nên người đời không thấy được sự nghiệp nhưng công dạy dỗ, giáo dục của ông vẫn được giới trí thức nhắc đến qua nhiều thế kỷ. Ông được sĩ phu Nam Bộ xưng tôn là sư biểu, người đặt nền móng cho học phong phương Nam, có ảnh hưởng rộng lớn sâu xa đến học vấn, đạo đức. Khi nhắc đến ông, họ ví người thầy này là "Cụ tổ ngành giáo dục Nam Kỳ".
Tên của ông được đặt cho một đại học ở tỉnh Hậu Giang, nhiều trường phổ thông khắp Nam Bộ. Riêng ở TP HCM, Võ Trường Toản là giải thưởng thường niên vinh danh những nhà giáo tiêu biểu của thành phố trong suốt 21 năm qua.
.
Bình luận