Phải có chứng chỉ TOEFL và IELTS
Theo dự thảo thông tư mới, muốn học tiến sĩ, các ứng viên phải có bằng thạc sĩ hoặc tốt nghiệp đại học loại giỏi.
Điểm mới trong yêu cầu "đầu vào" là các ứng viên phải là tác giả hoặc đồng tối thiểu 01 bài báo liên quan đến lĩnh vực hoặc đề tài nghiên cứu dự kiến đăng trên các tạp chí thuộc danh mục các tạp chí khoa học chuyên ngành hoặc 01 báo cáo đăng tại kỷ yếu của các hội nghị, hội thảo khoa học trong hoặc ngoài nước.
Các bài báo hoặc báo cáo này được đăng tải trong thời hạn 03 nămtính đến ngày đăng ký dự tuyển.
Ngoài ra, về yêu cầu tiếng Anh, dự thảo mới cũng không sử dụng các chứng chỉ ngoại ngữ theo chuẩn châu Âu hiện được 10 trường ĐH thi và cấp chứng chỉ như trước đây. Thay vào đó là yêu cầu về chứng chỉ tiếng Anh quốc tế như TOEFL và IELTS.
Cụ thể, các ứng viên phải đảm bảo có chứng chỉ tiếng Anh TOEFL iBT từ 45 trở lên hoặc Chứng chỉ IELTS (Academic Test) từ 5.0 trở lên hoặc Chứng chỉ TOEIC từ 500 điểm trở lên do một tổ chức khảo thí được quốc tế và Việt Nam công nhận cấp trong thời hạn 02 năm (24 tháng) kể từ ngày cấp đến ngày đăng ký dự tuyển.
Thời gian đào tạo
Thời gian đào tạo tiến sĩ vẫn là 3-4 năm tùy từng đối tượng (có bằng thạc sĩ hoặc tốt nghiệp đại học). Tuy nhiên, thời gian để nghiên cứu sinh hoàn thành chương trình đào tạo bao gồm thời gian gia hạn (tối đa 2 năm) là từ 5 năm đến 6 năm kể từ khi có quyết định công nhận nghiên cứu sinh.
Theo quy định hiện hành, tổng thời gian hoàn thành chương trình của nghiên cứu sinh có thể kéo dài tới 7-8 năm.
Khối lượng học tập cũng có quy định mới phù hợp với Khung năng lực trình độ quốc gia mới được Thủ tướng Chính phủ ban hành.
Cụ thể, khối lượng học tập chương trình tiến sĩ tối thiểu từ 90 tín chỉ đối vối nghiên cứu sinh có bằng tốt nghiệp thạc sĩ hoặc bằng tốt nghiệp đại học chương trình đào tạo có khối lượng học tập tối thiểu 150 tín chỉ, đáp ứng chuẩn đầu ra tương đương Bậc 7 của Khung trình độ quốc gia Việt Nam và từ 120 tín chỉ đối với nghiên cứu sinh có bằng tốt nghiệp đại học.
Chuẩn đầu ra phải đáp ứng các yêu cầu của Bậc 8 theo Khung trình độ quốc gia Việt Nam.
Người hướng dẫn phải có công bố quốc tế
Người hướng dẫn chức danh giáo sư hoặc phó giáo sư hoặc có bằng tiến sĩ khoa học hoặc tiến sĩ, chuyên môn phù hợp với đề tài luận án hoặc lĩnh vực nghiên cứu của nghiên cứu sinh.
Đối với người chưa có chức danh giáo sư, phó giáo sư thì phải có tối thiểu 5 năm nghiên cứu hoặc giảng dạy kể từ khi được cấp bằng tiến sĩ khoa học hoặc tiến sĩ.
Bên cạnh đó, người hướng dẫn phải chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp Bộ và tương đương trở lên.
Điểm quan trọng nhất đối với điều kiện của người hướng dẫn NCS chính là, họ phải có tối thiểu 1 bài báo đăng trên các tạp chí ISI hoặc Scopus hoặc 1 sách tham khảo của các nhà xuất bản nước ngoài có mã số chuẩn quốc tế ISBN.
Nếu không đạt điều kiện trên, người hướng dẫn cũng có thể có 2 báo cáo đăng trên tạp chí khoa học nước ngoài có phản biện khác thuộc lĩnh vực nghiên cứu liên quan tới đề tài luận án của NCS.
Trường hợp người hướng dẫn độc lập là tiến sĩ nhưng chưa có chức danh GS, PGS thì tiêu chuẩn nêu trên tăng gấp đôi.
Mỗi NCS được phép có 2 người hướng dẫn, trong đó, có ít nhất 1 người hướng dẫn là giảng viên cơ hữu của cơ sở đào tạo và một người đảm bảo các điều kiện đối với người hướng dẫn
Trường hợp người hướng dẫn là nước ngoài hoặc nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài thì không phải thực hiện quy định nêu trên.
Quy định mới cũng cho phép các GS, PGS được hướng dẫn đồng thời nhiều NCS hơn so với quy định hiện hành. Tuy nhiên, quy định mới yêu cầu người hướng dẫn không được nhận thêm nghiên cứu sinh mới nếu trong vòng 6 năm tính đến thời điểm giao nhiệm vụ có 2 NCS không hoàn thành chương trình đào tạo hoặc luận án không được hội đồng cấp trường/viện thông qua.
Điều kiện bảo vệ luận án
Quy định mới về điều kiện bảo vệ luận án của NCS cũng được thắt chặt hơn so với trước.
Cụ thể, quy định mới yêu cầu NCS phải công bố nội dung và kết quả nghiên cứu của luận án trong tối thiểu 2 bài báo, trong đó có ít nhất 1 bài đăng trong tạp chí khoa học thuộc danh mục các tạp chí ISI/Scopus hoặc 2 báo cáo đăng trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện (Peer Review) hoặc 2 bài báo đăng trên tạp chí khoa học nước ngoài có phản biện khác.
Thời gian thực hiện
Thời gian áp dụng những quy định mới sẽ áp dụng đối với các khóa tuyển sinh sau thời điểm quy chế có hiệu lực. Các khóa tuyển sinh trước vẫn thực hiện theo quy định cũ.
Đối với các quy định mới, có 2 phương án thực hiện. Phương án 1 là yêu cầu phải có bài báo quốc tế đối với người hướng dẫn NCS sẽ được thực hiện cho các khóa tuyển sinh từ sau 31/12/2018.
Yêu cầu có công bố quốc tế mới được bảo vệ luận án tiến sĩ sẽ được áp dụng cho các khóa tuyển sinh sau 31/12/2019.
Phương án 2, người hướng dẫn chỉ cần có 1 báo cáo đăng trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện hoặc 1 bài báo đăng trên tạp chí khoa học nước ngoài có phản biện trong vòng 5 năm chứ không cần phải có một công bố quốc tế trên các tạp chí ISI hoặc Scopus.
Quy định này áp dụng đối với các lĩnh vực khoa học tự nhiên kỹ thuật và công nghệ. Thời gian áp dụng từ khi quy định mới có hiệu lực đến hết 31/12/2018.
Đối với NCS, cho đến hết 31/12/2019, chỉ cần có tối thiểu qua 01 báo cáo đăng trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện (Peer Review) hoặc 01 bài báo đăng trên tạp chí khoa học nước ngoài có phản biện khác chứ không cần tối thiểu 2 bài báo quốc tế.
Quy định này cũng chỉ áp dụng đối với các lĩnh vực khoa học tự nhiên kỹ thuật và công nghệ.
Từ sau 2 thời điểm trên, các điều kiện và yêu cầu với người hướng dẫn và NCS được thực hiện như quy định mới và với tất cả các ngành, lĩnh vực, không phân biệt KHTN-KT-CN hay KHXH-NV.
Bình luận