Thực trạng doanh nghiệp càng hoạt động càng suy giảm quy mô một lần nữa báo động về sức khỏe của nền kinh tế song, các giải pháp gỡ khó còn khá mơ hồ.
Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam năm 2012 do VCCI công bố mới đây đã khẳng định rõ xu hướng ngày càng teo tóp của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại nước ta, tính từ năm 2002 đến 2012.
Kể từ khi có Luật doanh nghiệp (năm 2000), đến nay, cả nước đã có trên 694.000 doanh nghiệp được thành lập. Tuy nhiên, đến đầu năm 2013, chỉ còn hơn 300.000 doanh nghiệp đang hoạt động và 2/3 số đó không lớn lên nổi, thậm chí còn nhỏ dần về quy mô. 44,7% doanh nghiệp của số này giữ nguyên quy mô nhỏ trong suốt 10 năm, 18,7% tụt xuống thành doanh nghiệp siêu nhỏ, chỉ có 8,74% doanh nghiệp nhỏ phát triển thành doanh nghiệp có quy mô vừa và 6,55% thành quy mô lớn.
doanh nghiệp có quy mô vừa cũng ngày càng nhỏ đi: có đến 38,7% doanh nghiệp rớt xuống thành doanh nghiệp nhỏ, 5,12% thành doanh nghiệp siêu nhỏ.
Kết quả khảo sát của VCCI cũng cho thấy có đến 73% doanh nghiệp cho rằng tồn kho thực sự là mối lo ngại, 5,7% ngừng hoạt động trong năm 2012 do không tìm được thị trường đầu ra, không vay được vốn và giá nguyên vật liệu cao. Trong đó, 28,6% doanh nghiệp ngừng hoạt động vì không tìm được thị trường đầu ra, 21,4% do không vay được vốn, 17,9% do nguyên liệu giá cao.
Tỉ lệ doanh nghiệp thua lỗ trong giai đoạn 2002-2011 rất cao, lên đến 41,7% trong năm 2011. Hiệu suất sinh lợi trên tài sản cũng giảm từ 6,4% năm 2002 xuống còn 3,6% năm 2010.
Đáng lo ngại hơn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp đang kém đi, chỉ số thanh toán hiện tại và chỉ số thanh toán nhanh đều giảm, khả năng trả lãi vay ngân hàng cũng giảm dần từ 5 lần còn 3,5 lần trong giai đoạn 2009-2011.
Chính sách hỗ trợ chưa tới
Ông Trần Việt Anh, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cao su - Nhựa TPHCM, cho rằng ngay trong hiệp hội, phải có đến hơn 90% trong tổng số 300 doanh nghiệp hội viên là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Kinh tế khó khăn kéo dài từ năm 2010 đến nay khiến doanh nghiệp nhỏ và vừa rất dễ tổn thương nên tình trạng doanh nghiệp teo tóp, “chết” hẳn là bình thường.
Thanh khoản trên thị trường nội địa quá kém, doanh nghiệp không muốn đầu tư phát triển và phải chọn lọc, giao dịch với khách hàng có khả năng thanh toán chứ không dám cho thiếu nợ.
Một số doanh nghiệp phải bán bớt máy móc, đóng cửa nhà xưởng. Khi quy định về thuế bảo vệ môi trường có hiệu lực, một số doanh nghiệp bao bì nhựa lỗ lã, phải bỏ nghề, chuyển sang bán phở, bán thuốc đông y.
Cũng theo ông Trần Việt Anh, các vấn đề về vốn, tín dụng, nợ xấu ngân hàng trong bối cảnh kinh tế khó khăn, đầu ra bức bí là nguyên nhân khiến doanh nghiệp lâm vào cảnh nguy khốn. Chính phủ đã có những chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng các khoản hỗ trợ đó ít khi đến được với doanh nghiệp hoặc đến rất chậm, doanh nghiệp phải chủ động “liệu cơm gắp mắm”, âm thầm bám trụ và âm thầm… tê liệt!
Theo TS Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng CIEM, nền kinh tế Việt Nam là “kinh tế khoảng giữa”: Ít có doanh nghiệp lớn mà phần nhiều là doanh nghiệp nhỏ, cực nhỏ và hộ gia đình. Dù Nhà nước đã cho tự do kinh doanh nhưng chưa có những chính sách hỗ trợ phù hợp để tạo điều kiện cho doanh nghiệp lớn lên.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa ít có khả năng tiếp cận nguồn lực tốt, tài chính tốt; phần lớn ưu đãi được ưu tiên cho khối doanh nghiệp Nhà nước, khối doanh nghiệp tư nhân ít được hưởng (doanh nghiệp nhỏ phần nhiều là doanh nghiệp tư nhân).
Từ năm 2009 đến nay, kinh tế càng khó khăn, tính phòng thủ của doanh nghiệp càng gia tăng. Bên cạnh đó, chính sách phân biệt đối xử trong cách tính thuế thu nhập doanh nghiệp sắp áp dụng (doanh nghiệp nhỏ và vừa 20%, doanh nghiệp lớn 22%) cũng là lực cản khiến doanh nghiệp không muốn lớn. Các doanh nghiệp nhỏ còn có tâm lý không muốn tăng quy mô vì ngại đối diện và giải quyết các vấn đề về thủ tục hành chính, thuế…
Một số chuyên gia kinh tế cho rằng để lớn lên, bản thân doanh nghiệp phải tiến hành tái cấu trúc, thoát khỏi tư duy kinh tế cá thể, kinh tế hộ gia đình; tập trung nguồn lực nhiều hơn để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao năng suất lao động, tăng chất lượng và giảm giá thành sản phẩm.
Điều quan trọng và cần thiết cho doanh nghiệp lúc này là Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thông qua việc giảm thêm lãi suất cho vay, củng cố các gói bảo lãnh tín dụng với doanh nghiệp, đẩy mạnh thị trường xuất khẩu và xúc tiến thương mại để giải tỏa tồn kho…
Theo NLĐ
Ngoài những vướng mắc về vốn đầu tư, tín dụng, thị trường…, việc thiếu các chính sách hỗ trợ kịp thời, thiết thực cũng là nguyên nhân khiến doanh nghiệp ngày càng teo tóp, tê liệt.
Không lớn nổi
Theo khảo sát “Đặc điểm môi trường kinh doanh: Điều tra doanh nghiệp nhỏ và vừa” của Viện Nghiên cứu - Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), từ năm 2009 đến 2011, chỉ có 31 doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ đã phát triển thành doanh nghiệp quy mô vừa nhưng có đến 133 doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ thu hẹp thành doanh nghiệp cực nhỏ.
Khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cũng cho thấy tỉ lệ các doanh nghiệp có kế hoạch giữ nguyên hoặc giảm quy mô sản xuất - kinh doanh tăng mạnh so với những năm trước.
Doanh nghiệp tư nhân Vạn Hưng ở Sóc Trăng phá sản, quỵt nợ hàng tỉ đồng của người nuôi cá tại ĐBSCL. Ảnh: DUY NHÂN |
Kể từ khi có Luật doanh nghiệp (năm 2000), đến nay, cả nước đã có trên 694.000 doanh nghiệp được thành lập. Tuy nhiên, đến đầu năm 2013, chỉ còn hơn 300.000 doanh nghiệp đang hoạt động và 2/3 số đó không lớn lên nổi, thậm chí còn nhỏ dần về quy mô. 44,7% doanh nghiệp của số này giữ nguyên quy mô nhỏ trong suốt 10 năm, 18,7% tụt xuống thành doanh nghiệp siêu nhỏ, chỉ có 8,74% doanh nghiệp nhỏ phát triển thành doanh nghiệp có quy mô vừa và 6,55% thành quy mô lớn.
doanh nghiệp có quy mô vừa cũng ngày càng nhỏ đi: có đến 38,7% doanh nghiệp rớt xuống thành doanh nghiệp nhỏ, 5,12% thành doanh nghiệp siêu nhỏ.
Kết quả khảo sát của VCCI cũng cho thấy có đến 73% doanh nghiệp cho rằng tồn kho thực sự là mối lo ngại, 5,7% ngừng hoạt động trong năm 2012 do không tìm được thị trường đầu ra, không vay được vốn và giá nguyên vật liệu cao. Trong đó, 28,6% doanh nghiệp ngừng hoạt động vì không tìm được thị trường đầu ra, 21,4% do không vay được vốn, 17,9% do nguyên liệu giá cao.
Tỉ lệ doanh nghiệp thua lỗ trong giai đoạn 2002-2011 rất cao, lên đến 41,7% trong năm 2011. Hiệu suất sinh lợi trên tài sản cũng giảm từ 6,4% năm 2002 xuống còn 3,6% năm 2010.
Đáng lo ngại hơn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp đang kém đi, chỉ số thanh toán hiện tại và chỉ số thanh toán nhanh đều giảm, khả năng trả lãi vay ngân hàng cũng giảm dần từ 5 lần còn 3,5 lần trong giai đoạn 2009-2011.
Chính sách hỗ trợ chưa tới
Ông Trần Việt Anh, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cao su - Nhựa TPHCM, cho rằng ngay trong hiệp hội, phải có đến hơn 90% trong tổng số 300 doanh nghiệp hội viên là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Kinh tế khó khăn kéo dài từ năm 2010 đến nay khiến doanh nghiệp nhỏ và vừa rất dễ tổn thương nên tình trạng doanh nghiệp teo tóp, “chết” hẳn là bình thường.
Thanh khoản trên thị trường nội địa quá kém, doanh nghiệp không muốn đầu tư phát triển và phải chọn lọc, giao dịch với khách hàng có khả năng thanh toán chứ không dám cho thiếu nợ.
Một số doanh nghiệp phải bán bớt máy móc, đóng cửa nhà xưởng. Khi quy định về thuế bảo vệ môi trường có hiệu lực, một số doanh nghiệp bao bì nhựa lỗ lã, phải bỏ nghề, chuyển sang bán phở, bán thuốc đông y.
Cũng theo ông Trần Việt Anh, các vấn đề về vốn, tín dụng, nợ xấu ngân hàng trong bối cảnh kinh tế khó khăn, đầu ra bức bí là nguyên nhân khiến doanh nghiệp lâm vào cảnh nguy khốn. Chính phủ đã có những chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng các khoản hỗ trợ đó ít khi đến được với doanh nghiệp hoặc đến rất chậm, doanh nghiệp phải chủ động “liệu cơm gắp mắm”, âm thầm bám trụ và âm thầm… tê liệt!
Theo TS Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng CIEM, nền kinh tế Việt Nam là “kinh tế khoảng giữa”: Ít có doanh nghiệp lớn mà phần nhiều là doanh nghiệp nhỏ, cực nhỏ và hộ gia đình. Dù Nhà nước đã cho tự do kinh doanh nhưng chưa có những chính sách hỗ trợ phù hợp để tạo điều kiện cho doanh nghiệp lớn lên.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa ít có khả năng tiếp cận nguồn lực tốt, tài chính tốt; phần lớn ưu đãi được ưu tiên cho khối doanh nghiệp Nhà nước, khối doanh nghiệp tư nhân ít được hưởng (doanh nghiệp nhỏ phần nhiều là doanh nghiệp tư nhân).
Từ năm 2009 đến nay, kinh tế càng khó khăn, tính phòng thủ của doanh nghiệp càng gia tăng. Bên cạnh đó, chính sách phân biệt đối xử trong cách tính thuế thu nhập doanh nghiệp sắp áp dụng (doanh nghiệp nhỏ và vừa 20%, doanh nghiệp lớn 22%) cũng là lực cản khiến doanh nghiệp không muốn lớn. Các doanh nghiệp nhỏ còn có tâm lý không muốn tăng quy mô vì ngại đối diện và giải quyết các vấn đề về thủ tục hành chính, thuế…
Một số chuyên gia kinh tế cho rằng để lớn lên, bản thân doanh nghiệp phải tiến hành tái cấu trúc, thoát khỏi tư duy kinh tế cá thể, kinh tế hộ gia đình; tập trung nguồn lực nhiều hơn để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao năng suất lao động, tăng chất lượng và giảm giá thành sản phẩm.
Điều quan trọng và cần thiết cho doanh nghiệp lúc này là Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thông qua việc giảm thêm lãi suất cho vay, củng cố các gói bảo lãnh tín dụng với doanh nghiệp, đẩy mạnh thị trường xuất khẩu và xúc tiến thương mại để giải tỏa tồn kho…
Theo NLĐ
Bình luận