Giáo sư, Tiến sĩ Cao Tiến Đức hiện là chủ nhiệm bộ môn Tâm thần và Tâm lý Y học, Khoa Tâm thần, Bệnh viện 103, Hà Nội. Mỗi năm đến Ngày Nhà giáo Việt Nam, bác sĩ Đức lại nhớ đến người thầy đã qua đời của mình - Phó giáo sư Lê Hải Chi. Thầy Chi là chủ nhiệm bộ môn Tâm thần và Tâm lý Y học, những năm 1980, người có ảnh hưởng quan trọng đối với bác sĩ Đức.
"Năm 1981, tôi thực tập lâm sàng 2 tuần ở Khoa tâm thần, Bệnh viện Quân y 103, Hà Nội. Thời gian tuy không nhiều nhưng đủ để tôi lưu giữ lại những kỷ niệm sâu sắc. Người bệnh ở Khoa tâm thần cũng là những con người bình thường như bất kỳ ai trong chúng ta.
Khi đó, dù chiến tranh đã lùi xa, nhưng tôi vẫn gặp nhiều thương binh, bệnh binh đi ra từ chiến trường. Cuộc chiến khốc liệt ở các mặt trận, sự gian khổ, thiếu thốn, sốt rét, chất độc hóa học... đã khiến họ bị tiêu hao nhiều sức lực, để giành lại hòa bình cho Tổ quốc.
Họ để lại cả một phần xương máu nơi chiến trường, và đổi lại, đi theo họ về với cuộc sống đời thường không chỉ là bệnh tật mà còn là những vết thương không thể nhìn thấy.
Ở khoa tâm thần lúc đó, bệnh nhân là những người đặc biệt: đó là những em bé, những cụ già, những học sinh, sinh viên, những người công nhân, nông dân, có cả trí thức cùng cán bộ chiến sĩ quân đội. Gọi là những người bệnh đặc biệt vì cảm xúc, tình cảm, tư duy, hành vi của họ không bình thường. Đôi khi họ mất kiểm soát và gây nguy hiểm cho bản thân, gia đình và xã hội.
Khi đó khoa tâm thần còn lụp xụp lắm, cơ sở vật chất, thuốc men thiếu thốn. Hiểu biết của xã hội về căn bệnh tâm thần thời điểm đó vẫn còn hạn chế, dẫn đến nhiều người coi thường, miệt thị, đối xử không công bằng với người bệnh.
Người ta cho rằng bệnh là do thần linh, ma quỷ gây ra. Vì vậy, đa số người bệnh không được đưa đến viện mà gia đình sẽ đưa họ đi chùa, đi cúng, đi giải hạn.
Hầu hết cơ sở tâm thần trong cả nước khi đó phải giam giữ người bệnh, cách ly với xã hội bên ngoài. Cả những người bác sĩ học tập và làm việc tại khoa tâm thần như chúng tôi đôi khi cũng bị cười chê.
Tôi được Phó giáo sư Lê Hải Chi, là người thầy chủ nhiệm trực tiếp dìu dắt. Tôi nhớ mãi những bài giảng đầu đời, thầy dạy tôi phải tôn trọng người bệnh, phải thương yêu quý mến người bệnh, coi họ như người thân. Hàng tuần thầy đưa chúng tôi đi điểm bệnh, giảng cho chúng tôi từng triệu chứng trên người bệnh.
Thầy dạy sinh viên phương pháp nghiên cứu khoa học. Chúng tôi có được những bài tập nghiên cứu, những buổi sinh hoạt khoa học rất bổ ích.
Thầy Chi góp sức to lớn cho những bước phát triển ở viện, bằng việc áp dụng mô hình tiên tiến của thế giới - mô hình "cửa mở có quản lý" vào khoa Tâm thần. Các buồng giam giữ người bệnh khi xưa bị phá đi, thay vào đó là buồng bệnh thoáng mát, mở cửa.
Đặc biệt, không gian xung quanh khoa được cách biệt và có sự yên bình lạ thường. Vườn đầy hoa, cây cảnh, cây ăn trái... người bệnh không chỉ được thăm khám, được điều trị bằng thuốc, các liệu pháp khác như sốc điện, sốc insulin, bơm khí não, mà liệu pháp tâm lý cũng được sử dụng. Họ tập thể dục, chơi thể thao như bóng chuyền, bóng bàn.
Hơn thế, thầy Chi cùng bác sĩ Nguyễn Thọ đã phát triển liệu pháp âm nhạc, bệnh nhân được múa, được hát được diễn kịch trên sân khấu. Hàng tuần, họ được thưởng thức những chương trình văn nghệ do các nghệ sĩ lớn như NSND Quý Dương, Lê Dung, Thu Hiền, Doãn Tần, nghệ sĩ Tôn Thất Chiêm, nhạc sĩ Vũ Trọng Hối biểu diễn. Người bệnh tham gia vẽ tranh, nặn đồ gốm, dệt chiếu, may vá quần áo, trồng hoa...
Cứ thế, không biết tự lúc nào, tôi thấy thương và yêu những bệnh nhân của mình nhiều hơn. Khoa tâm thần đối với tôi không còn là bệnh viện, mà như là ngôi nhà thứ hai. Nơi đây gần gũi và bình yên lắm.
Trở về sau 2 tuần thực tập ở khoa tâm thần, Bệnh viện quân y 103, tôi không ngừng nghĩ về người bệnh tâm thần, về hình ảnh thầy Chi, về các bác sĩ, về nhân viên và tất tần tật những con người tôi đã gặp đây. Tôi bắt đầu mơ ước được làm bác sĩ chuyên ngành tâm thần.
Thật may mắn, khi khoa có chỉ tiêu nhận thêm bác sĩ, thầy Chi nhớ đến tôi như một học trò chăm chỉ, ngoan ngoãn từng đi học ở khoa trước khi thi tốt nghiệp. Thầy gọi tôi đến và hỏi "có muốn về công tác ở khoa tâm thần hay không?". Tôi rất vui mừng, và xin nhận lời thầy.
Để về khoa tâm thần công tác, tôi phải cố gắng nhiều hơn, phải thi tốt nghiệp đạt kết quả tốt. Năm 1982, ước mơ của tôi trở thành hiện thực, tôi trở thành bác sĩ chính của khoa. Tôi được sự giúp đỡ và tận tình chỉ bảo của thầy Hải Chi, thầy Ngân, thầy Tản, thầy Thọ, các thầy cô ở Bệnh viện 103, Học viện Quân y cùng các thầy trong ngành tâm thần học Việt Nam.
36 năm qua tôi luôn học tập, phấn đấu liên tục và đóng góp sức lực của mình cho sự phát triển của bộ môn tâm thần, khoa A6 Bệnh viện 103 và ngành Tâm thần học Việt Nam.
Năm 1988, khi đến tuổi nghỉ hưu, thầy Chi sang Angola làm chuyên gia. Với kiến thức y học sâu rộng, sử dụng thành thạo 5 ngoại ngữ, thầy từng làm viện trưởng viện quân y, giúp đỡ nhiều cho công tác chăm sóc sức khỏe của nhân dân Angola.
Thầy Chi đồng thời còn làm chủ nhiệm bộ môn nội cho Đại học Y Luanda, Angola. Những năm cuối đời, dù sức khỏe yếu, bị đột quỵ não 2 lần, thầy Chi vẫn tiếp tục cống hiến cho nền y tế Angola. Năm 2012, thầy qua đời ở thủ đô Luanda, thi thể được đưa về Hà Nội với tang lễ trọng thể.
Giờ đây thầy Chi đã đi xa. Tôi luôn nhớ về thầy, một người thầy mẫu mực, rất tài năng và rất tâm huyết. Thầy luôn hết lòng thương yêu người bệnh, hết lòng vì học sinh thân yêu.
Ngành tâm thần học giờ có nhiều tiến bộ nhưng còn nhiều khó khăn trong khám và điều trị bệnh lý tâm thần, khi mà các giá trị thật giả lẫn lộn, khi mà các tệ nạn xã hội tăng quá nhanh như nghiện chất (rượu, bia, ma túy), nghiện hành vi (game, cờ bạc)... Noi gương thầy, tôi vẫn mong ước tiếp tục cống hiến cho ngành tâm thần học.
Nếu bây giờ được chọn lại nghề, nhất định tôi vẫn chọn nghề đặc biệt này. Với tôi, hình ảnh về thầy Lê Hải Chi, một vị lãnh đạo, một người thầy, một bác sĩ hết lòng vì người bệnh, vì học sinh thân yêu, sẽ còn mãi trong lòng đến mai sau.
Bình luận