Thảm sát cả làng vì không khuất phục được
Lịch sử của làng như một khúc ca bi tráng, hào hùng. Tại nơi đây có những câu chuyện đánh giặc giữ làng ly kỳ như phim. Những chuyện đau thương ấy, những hy sinh thầm lặng, chiến công giữ nước lại chưa được sử sách nhắc nhiều tới.
Từ xưa Quán Trang đã là vị trí trọng yếu về kinh tế và quốc phòng an ninh của cả vùng vì ba mặt đều là sông bao bọc: Sông Văn Úc phía Tây, sông Lạch Tray vòng phía Bắc, sông Đa Độ uốn lượn phía Nam. Không xa vùng đất Bát Trang nhìn về hướng thành phố Cảng là khu di tích lịch sử Núi Voi là vùng căn cứ hoạt động của lãnh đạo Thành ủy Hải Phòng thời bấy giờ. Đứng trên núi Voi phóng tầm mắt, làng như một cù lao lớn, một pháo đài nằm án ngữ ngay vị trí hiểm yếu.
Ngay từ ngày đầu giặc Pháp chiếm đóng Hải Phòng, chúng đã xây đồn bốt khắp nơi hòng chia cắt làng và những địa phương khác để dễ bề cai trị. Nhưng người Quán Trang không dễ trị và cũng không trị được, nên Pháp lập nhiều đồn bốt vây chặt làng, giám sát mọi hoạt động của người dân.
Tuy nhiên những nông dân lam lũ, quanh năm chân lấm tay bùn vẫn bám trụ, giữ làng. Ngày ấy giặc hết nhảy dù vào làng cướp bóc lại dùng ca nô tấn công bằng đường thủy. Dân làng phải chặt cả ngàn cây tre để rào sông lại không cho giặc lấn tới. Cứ đêm đêm người dân lại họp nhau bàn cách đánh giặc. Làng tự thành lập đội tự vệ "Sao Vuông" với hơn 30 đội viên, tự chế vũ khí trang bị cho mình chống lại quân xâm lược.
Với vũ khí chỉ là mã tấu, dao kiếm là chính nhưng đội tự vệ bao lần làm cho giặc thất điên bát đảo. Chúng mưu đồ một cuộc trả thù dã man, thảm khốc… Đó là ngày 29/4/1949. Đây là vụ thảm sát lớn nhất chưa từng có cho đến thời điểm đó. Quy mô và mức độ dã man không kém gì vụ "Mỹ Lai" sau này.
Bia tưởng niệm khắc tên những người bị thảm sát |
Nhiều nhân chứng kể lại, vào khoảng 10h sáng, giặc huy động quân từ bốt Ruồn, đò Cựu, Liễu Dinh, Thượng Trang tràn vào Quán Trang. Chúng đi tới đâu đốt phá tới đấy, lửa khói mù mịt, súng nổ đùng đoàng. Chúng thực hiện "ba sạch": Cướp sạch, đốt sạch, phá sạch. Chỗ nào cũng thấy tiếng người la khóc, tiếng con gọi mẹ, tiếng kêu van…
Lính Tây lăm lăm lưỡi lê xông vào từng nhà lôi người già, người trẻ ra đánh đập, đe dọa, uy hiếp. Khi không đạt được mục đích, chúng thẳng tay sát hại dã man rồi châm lửa đốt nhà. Một số người bị dồn tới đầu làng, bị ném xuống hố bom châm mìn hại chết.
Cụ Đoàn Văn Quận, Đoàn Vũ Bắc những cán bộ tiền khởi nghĩa, nay đã trên 80 tuổi nhớ như in về cuộc thảm sát ngày ấy cũng như lịch sử cái làng nhỏ bên ba dòng sông này. "Các chú muốn biết chuyện thảm sát đó thì đi theo tôi ra đình làng".
Đó là một ngôi đình cổ kính nằm im lìm dưới bóng cây cổ thụ, những vết rêu phong xen lẫn những mảng vữa mới chứng tích của sự khôi phục lại sau những lần bom đạn làm người ta liên tưởng đến những thăng trầm của một ngôi làng nhỏ. Bên tấm bia cao chừng 5m dựng ở bên trái cửa, lặng đi khi đọc hàng chữ được khắc một cách cẩn thận: Hôm đó là ngày 29/4/1949. Cái ngày mà người dân làng Quán Trang không thể nào quên được.
Sau trận càn, hàng trăm lính Pháp đã lùa cả làng ra đình để hành quyết man rợ theo kiểu thời trung cổ. Chúng bắt gần 400 người, chủ yếu là phụ nữ, người già và trẻ em ra đình, lột hết quần áo bắt quỳ. Tiếng kêu khóc thảm thiết của những phụ nữ, tiếng la khóc của trẻ nhỏ vì kinh sợ. Bốn tên lính Pháp lực lưỡng lôi xềnh xệch ông Nguyễn Văn Khung, một du kích trong đội "Sao Vuông" vào sân đình. Chúng đè ông lên một chiếc bàn gỗ, giữ chặt ông, một tên cầm lưỡi lê đâm vào cổ ông trước những tiếng la ré lên vì kinh sợ. Nhiều người đã ngất xỉu, gục xuống sân đình.
Sau khi chém giết gần chục người, chúng lùa hết số người còn lại trần truồng ra bờ sông, xua xuống sông để bơi sang Thanh Hà (huyện bên kia sông) rồi từ trên bờ chúng dùng liên thanh xả vào dòng người đang ngụp lặn trên sông.
Rất nhiều người đã chết ngay tại chỗ, máu đỏ cả một khúc sông, tiếng kêu la thảm thiết vang vọng cả một vùng. Hai gia đình ông Thướng và ông Lịch mỗi nhà chết 4 người. Sáng hôm sau chúng còn bắt 8 người mang ra Cống Hạ đâm chết, vứt xác xuống sông.
Sự kiên cường của người dân Quán Trang
Mặc dù địch tiến hành những cuộc bắt bớ, giết chóc hòng lung lạc ý chí chiến đấu bảo vệ quê hương, nhưng người dân Quán Trang vẫn không hề nao núng. Quán Trang lập làng chiến đấu: Đào giao thông hào quanh làng, từng nhà đào hầm trú ẩn, hầm bí mật cất giấu cán bộ để bám trụ mỗi khi lực lượng tự vệ buộc phải rút khỏi làng.
Một lực lượng vũ trang lớn đã được hình thành, bao gồm các lực lượng quan trọng như: Đội quân báo (có 12 đội viên), mỗi thôn đều có đội du kích với số quân lên đến 120 người.
Ngoài ra Quán Trang còn có Đội quyết tử, sau sát nhập với đội quyết tử của xã, số quân tình nguyện gồm 35 cảm tử quân. Vũ khí của các đội du kích, Đội quyết tử là súng ống, lựu đạn cướp được của giặc, súng, mìn tự chế; cuốc thuổng, gậy gộc, giáo mác tự chế...
Với vũ khí như vậy, các lực lượng vũ trang Quán Trang đã chống trả quyết liệt những trận càn của địch để bảo vệ quê hương làng xóm.
Đã có biết bao tấm gương hy sinh dũng cảm, những câu chuyện tình yêu như là huyền thoại. Cả những mất mát to lớn và cả những nỗi đau mà người dân Quán Trang phải gánh chịu. Tất cả những cái đó đã làm nên một bản tình ca bi tráng về cuộc chiến đấu giữ nước, giữ nhà của người Quán Trang.
Trong Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam, có một hiện vật hình mái chèo làm bằng thân cau được đặt trang trọng trên giá bọc nhung đỏ, bên dưới ghi dòng chữ: Chiếc mái chèo làm bằng be cau (thân cau già) của Nguyễn Văn Hồng, Bát Trang (An Lão, Hải Phòng) dùng đánh giặc.
Nguyễn Văn Hồng được mọi người nhắc tới như một anh hùng. Hồng mồ côi từ nhỏ, người thấp bé lắm, chỉ cao đến nách thằng Tây, nhà nghèo quanh năm đi ở đợ chăn trâu kiếm sống. Năm 1948 giặc càn làng ác lắm cứ đi đến đâu là đốt phá bắn giết đến đó. Uất quá lúc ấy chẳng có vũ khí gì cậu ấy liền vác mái chèo dùng để bơi thuyền theo du kích đi đánh giặc.
Sau nhiều lần Hồng một mình mưu trí giết giặc, Tỉnh ủy Kiến An tổ chức khen thưởng, tặng anh một khẩu côn, một dao găm và hai chiếc khăn tay và được phân công làm Xã đội trưởng.
Ngày ấy những thứ đó quý lắm hơn cả vàng bạc nhưng đến là lạ, Hồng chỉ thích đánh "tay bo" với giặc còn súng ống đều nhường lại cho người khác. Chỉ giữ có hai chiếc khăn tay làm "của riêng" cho mình.
Trận cuối cùng Nguyễn Văn Hồng đánh đồn Núi Voi. Đó là đêm 25/5/1949. Đêm ấy trăng sáng vằng vặc, ở làng quê trăng lại càng sáng và lạnh lẽo hơn. Lần ấy du kích làng kết hợp với bộ đội trên tỉnh về để nhử địch ra đánh, mãi đến gần sáng chúng mới mò vào làng.
"Sự cố" trận phục kích ấy là do mìn của du kích lúc giật lại không nổ mà địch đã rất gần. Chúng phát hiện xả súng làm mấy người chết, thấy tình hình nguy cấp, Nguyễn Văn Hồng lao lên xông chặn làn đạn lại để cứu nguy cho đồng đội, miệng hô "xung phong!". Bọn giặc nghĩ thế quân ta đang mạnh mà hoảng sợ. Vì thế mà đồng đội rút lui an toàn còn anh thì ra đi mãi mãi với tấm thân chi chít vết đạn.
“Ở cái làng "bảy ngày ba trận càn" này không có những người như thế thì làm sao dân làng tôi còn được tồn tại đến ngày nay!”, ông Lệ - phó chủ tịch nói. Qủa thật, đó là dấu ấn về một vùng đất anh hùng cần được sử sách lưu giữ.
Theo Nguoiduatin
Bình luận