Thực thi Luật Bảo vệ môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường lập báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 5 năm một lần, đồng thời, lập báo cáo chuyên đề về môi trường quốc gia hàng năm.
Năm 2018, Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia với chủ đề "Môi trường nước các lưu vực sông" nhằm đánh giá tổng thể và toàn diện về hiện trạng môi trường nước các lưu vực sông và các vấn đề liên quan đến công tác quản lý môi trường nước các lưu vực sông ở Việt Nam trong giai đoạn 2014 - 2018.
Nội dung chính của báo cáo bao gồm tổng quan về các lưu vực sông của nước ta và sức ép lên môi trường nước các lưu vực sông; các nguồn gây ô nhiễm; hiện trạng, diễn biến chất lượng môi trường nước các lưu vực sông; tác động của ô nhiễm môi trường nước; đánh giá tổng quan về công tác quản lý môi trường nước các lưu vực sông; những thách thức đã và đang đặt ra và đề xuất giải pháp.
Hiện, môi trường nước các lưu vực sông đang đứng trước sức ép rất lớn bởi nhu cầu sử dụng nước cho sản xuất và dân sinh ngày càng tăng cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội; áp lực của sự gia tăng dân số và quá trình đô thị hóa mạnh mẽ. Chính điều đó tạo ra nhiều tác động tiêu cực đến chất lượng và trữ lượng nguồn nước các lưu vực.
Ô nhiễm môi trường nước trên các lưu vực sông có thể do tiếp nhận chất thải từ các nguồn xả thải vảo lưu vực sông hoặc do sự lan truyền chất ô nhiễm trong môi trường nước. Một số nguồn ô nhiễm chính đó là nước thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, làng nghề, y tế và chất thải rắn. Vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long đóng góp lượng nước thải sinh hoạt và nước thải nông nghiệp lớn do tốc độ đô thị hóa cao.
Trong giai đoạn 2014 - 2018, bên cạnh một số lưu vực sông vẫn duy trì chất lượng nước ở mức khá tốt như lưu vực sông Hồng - Thái Bình, Mê Công vẫn còn tồn tại những khu vực thuộc một số lưu vực sông vẫn tiếp tục bị ô nhiễm, là điểm nóng về ô nhiễm môi trường nước trong thời gian dài vẫn chưa được khắc phục như lưu vực sông Nhuệ - Đáy, các sông nội thành Hà Nội, TP.HCM, sông Ngũ Huyện Khê, khu vực thượng nguồn sông Mã...
Có những khu vực sau khi được khắc phục cải tạo lại xảy ra tình trạng tải ô nhiễm. Nguyên nhân chính là do chưa kiểm soát và xử lý được triệt để các nguồn xả thải từ các hoạt động sinh hoạt, sản xuất công nghiệp, làng nghề... Cũng trong giai đoạn này, các sự cố môi trường do hoạt động sản xuất công nghiệp vẫn tiếp tục xảy ra gây tác động đến môi trường nói chung, môi trường nước nói riêng.
Hậu quả của ô nhiễm môi trường nước là những tác động tiêu cực đến sức khỏe cộng đồng, các hệ sinh thái và còn gây ra những xung đột trong khai thác, sử dụng nguồn nước. Từ đó, gây ra những thiệt hại kinh tế không nhỏ cho xã hội.
Đề xuất giải pháp bảo vệ môi trường nước
Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong giai đoạn 2014 - 2018, công tác quản lý môi trường nước có nhiều nỗ lực trong việc rà soát những chính sách, văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện công tác thống kê, quản lý nguồn thải ở một số lưu vực sông trọng điểm.
Nhiều dự án, chương trình xử lý ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường nước được triển khai và thu được nhiều kết quả khá tốt. Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại hạn chế và những thách thức như vấn đề quản lý môi trường nước lưu vực sông liên vùng, liên tỉnh; kiểm soát ô nhiễm môi trường nước xuyên biên giới; vấn đề an ninh nguồn nước; quản lý tài nguyên, môi trường nước và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Theo đó, báo cáo đề xuất các nhóm giải pháp, bao gồm nhóm các giải pháp tổng thể để bảo vệ và quản lý tổng hợp môi trường nước, nhóm các giải pháp cụ thể cho các lưu vực sông theo vùng địa lý và nhóm giải pháp ưu tiên thực hiện để khắc phục và xử lý triệt để các điểm nóng về ô nhiễm môi trường nước, giám sát các vấn đề môi trường xuyên biên giới và ứng phó hiệu quả diễn biến biến đổi khí hậu để giảm thiểu tác động tới môi trường nước các lưu vực sông.
Trong thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường; tăng cường giám sát việc triển khai thực thi các Luật, văn bản liên quan đến bảo vệ môi trường nói chung và môi trường nước nói riêng; giám sát các dự án, chương trình có quy mô lớn, có nguy cơ gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, đặc biệt ở các khu vực nhạy cảm; đẩy mạnh việc chỉ đạo, giải quyết các vấn đề bức xúc, ngăn chặn việc gia tăng ô nhiễm môi trường nước, đảm bảo an ninh nguồn nước và vấn đề ô nhiễm xuyên biên giới.
Đối với các Bộ, ngành, địa phương, Bộ Tài nguyên và Môi trường kiến nghị tiếp tục xây dựng và trình Chính phủ tổ chức thực hiện các Chương trình, Dự án nhằm giải quyết các vấn đề bức xúc về môi trường nước trong phạm vi quản lý; hoàn thiện cơ cấu tổ chức hệ thống quản lý nhà nước các cấp đảm bảo nguồn nhân lực quản lý môi trường; đẩy mạnh triển khai thực hiện các quy hoạch bảo vệ môi trường lưu vực sông, thống nhất quy hoạch sử dụng nước giữa các ngành; lựa chọn và áp dụng các công nghệ xử lý nước thải tiên tiến, phù hợp với điều kiện nước ta; đồng thời tăng cường thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường nước và kiểm soát ô nhiễm.
Bình luận