Trong đó, điện thoại và linh kiện đạt 16,2 tỷ USD, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước; Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 12,4 tỷ USD, tăng 28,6%; Hàng dệt may đạt 8,9 tỷ USD, giảm 5,8%; Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 6,9 tỷ USD, tăng 29,6%.
Mặt hàng giày dép đạt 5,5 tỷ USD, tăng 1,3%; Gỗ và sản phẩm gỗ đạt 3,4 tỷ USD, tăng 10,1%.
Phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 2,7 tỷ USD, giảm 3,9%; Thủy sản đạt 2,2 tỷ USD, giảm 8,5%; Sắt thép đạt 1,4 tỷ USD, giảm 4,7%; Xơ, sợi dệt đạt 1,2 tỷ USD, giảm 11,5%; Sản phẩm chất dẻo đạt 1,1 tỷ USD, tăng 1,3%; Túi xách, ví, ba lô, ô dù đạt 1,1 tỷ USD, giảm 5,7%; Sản phẩm từ sắt thép đạt 1,03 tỷ USD, tăng 1,5%.
Tuy nhiên, nhiều mặt hàng chủ lực về nông sản giảm đáng kể so với cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng của dịch COVID-19 như: Rau quả đạt 1,3 tỷ USD, giảm 8,7%; Cao su đạt 403 triệu USD, giảm 27,5% (lượng giảm 31,7%); Hạt tiêu đạt 257 triệu USD, giảm 9,2% (lượng tăng 11,9%).
Những mặt hàng nông sản có kim ngạch xuất khẩu tăng: Cà phê đạt 1,1 tỷ USD, tăng 2,2% (lượng tăng 4,5%); Hạt điều đạt 963 triệu USD, tăng 5,9% (lượng tăng 21,5%); Gạo đạt 892 triệu USD, tăng 0,2% (lượng giảm 7,9%).
Bình luận