Đã có lúc có đến 10 doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh điện thoại di động với thương hiệu riêng. Tuy nhiên, chỉ còn vỏn vẹn một số ít thương hiệu Việt trên thị trường.
Tình hình kinh doanh tụt dốc
Năm 2011 -2012, các thương hiệu điện thoại Việt liên tục “khai tử”. HiPT "khai tử" Hi-Mobile bằng một văn bản gửi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thông báo sản phẩm Hi-Mobile đã được chuyển giao cho Công ty TNHH một thành viên Phân phối Hà Nội Belico.
Không chỉ có Hi-Mobile, một số thương hiệu khác như BlueFone của Tập đoàn CMC, Hanel của Tập đoàn Hanel cũng lặng lẽ ra đi. Dù không được công bố, song theo các nhà kinh doanh bán lẻ thì điện thoại BlueFone và Hanel đã bị "khai tử" từ đầu năm nay khi họ không nhận được sự hỗ trợ nào từ các hãng sản xuất của hai thương hiệu nói trên.
Vào các năm 2009 và 2010, có ít nhất 10 doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh điện thoại di động với thương hiệu riêng. Cũng đã có những thương hiệu nhanh chóng trở nên quen thuộc với người tiêu dùng như Q-Mobile của ABTel, F-Mobile của FPT, Mobistar của P&T, Avio của VinaPhone, Zik 3G của Viettel... Thậm chí có công ty sở hữu một lúc ba thương hiệu như Công ty Vũ Huy Hoàng với Mobell, Cayon và K-Touch.
Sự thành công của một số nhà cung cấp đã khiến nhiều doanh nghiệp công nghệ có tiềm lực tài chính lẫn công nghệ như HiPT, CMC và Hanel tham gia một cách rầm rộ.
Các doanh nghiệp này lạc quan tin tưởng rằng với thế mạnh về sản xuất và phân phối, họ sẽ chiếm các vị trí hàng đầu trên phân khúc điện thoại thương hiệu Việt. Thế nhưng nay cả ba đã "không kèn không trống" rút khỏi thị trường.
Theo một kết quả nghiên cứu thị trường của IDC, năm 2011 tổng thị phần của điện thoại thương hiệu Việt chiếm 21%, giảm so với năm 2010 là 24%. Đáng chú ý là, trong quý I/2012 số lượng điện thoại thương hiệu Việt được tiêu thụ giảm rất mạnh (15%) so với quý trước.
Đi tìm lý do thất bại?
Năm 2012 là năm thực sự khó khăn đối với các hãng điện thoại thương hiệu Việt, đã có nhiều hãng có doanh thu giảm mạnh và nhiều hãng đã rời khỏi thị trường. Hiện tại, có rất ít hãng hy vọng "sống" qua được thời kỳ khó khăn và tiếp tục bước đi.
Sức tiêu thụ điện thoại giảm mạnh cộng với sức ép cạnh tranh rất gay gắt từ các hãng điện thoại lớn như Nokia, Samsung và LG, Apple đã khiến cho thị phần của điện thoại thương hiệu Việt bị thu hẹp. Thêm vào đó, hơn một chục thương hiệu Việt cạnh tranh lẫn nhau khiến cho miếng bánh thị phần ngày càng co hẹp.
Một nguyên nhân khác là mức độ hiểu biết về thị trường và người tiêu dùng của doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế.
Thời điểm năm 2011 -2012, khi mà các doanh nghiệp điện thoại Việt chỉ tập trung vào dòng điện thoại giá rẻ, ít cải tiến. Trong khi đó, thời điểm này các nhà sản xuất thế giới như Apple Samsung đã bắt đầu cả tiến công nghệ, đưa ra những sản phẩm điện thoại thông minh với nhiều ứng dụng hữu ích.
Để có được nhiều mẫu mã với giá thành rẻ, các nhà sản xuất trong nước đã thực hiện bằng cách mua một mẫu máy tại Trung Quốc. Sau đó dán thương hiệu của mình lên để phân phối.
Các doanh nghiệp Việt sẽ không mất bất kỳ chi phí nào cho việc phát triển sản phẩm ban đầu. Nhưng điều hạn chế của những sản phẩm này đó chính là chất lượng phần cứng và nâng cấp về phần mềm sau này hoàn toàn phụ thuộc vào đơn vị sản xuất.
Theo các chuyên gia, đã qua rồi cái thời mà doanh nghiệp nào cũng có thể nhập khẩu một lô điện thoại từ Trung Quốc về, dán nhãn Việt Nam và bán ra thị trường. Chiếc điện thoại không còn là một thiết bị chỉ để nghe và gọi, mà là một sự trải nghiệm mang tính cá nhân hóa cao.
Chính vì vậy, muốn được chấp nhận, hơn ai hết doanh nghiệp phải trang bị cho mình những sự hiểu biết sâu sắc về người tiêu dùng. Điều này đòi hỏi sự kiên trì, năng động và thấu đáo.
Hiện tại trên thị trường điện thoại, chỉ còn lác đác một vài thương hiệu Việt được chú ý như: Q-Mobile, Mobiistar, ... và mới đây nhất là Bphone của Bkav.
Bphone của Bkav có chiến lược khác hẳn so với các thương hiệu điện thoại Việt trước đây, với mục đích đánh vào phân khúc smartphone cao cấp, cấu hình mạnh mẽ. Tuy nhiên, liệu Bphone có thành công hay không vẫn là một câu hỏi lớn với nhà sản xuất, khi mà các thương hiệu điện thoại Việt đang vấp phải những khó khăn tình hình kinh doanh xuống dốc.
Nguồn: bizlive
Tình hình kinh doanh tụt dốc
Năm 2011 -2012, các thương hiệu điện thoại Việt liên tục “khai tử”. HiPT "khai tử" Hi-Mobile bằng một văn bản gửi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thông báo sản phẩm Hi-Mobile đã được chuyển giao cho Công ty TNHH một thành viên Phân phối Hà Nội Belico.
Không chỉ có Hi-Mobile, một số thương hiệu khác như BlueFone của Tập đoàn CMC, Hanel của Tập đoàn Hanel cũng lặng lẽ ra đi. Dù không được công bố, song theo các nhà kinh doanh bán lẻ thì điện thoại BlueFone và Hanel đã bị "khai tử" từ đầu năm nay khi họ không nhận được sự hỗ trợ nào từ các hãng sản xuất của hai thương hiệu nói trên.
Vì sao thương hiệu điện thoại Việt 'chết yểu'? |
Sự thành công của một số nhà cung cấp đã khiến nhiều doanh nghiệp công nghệ có tiềm lực tài chính lẫn công nghệ như HiPT, CMC và Hanel tham gia một cách rầm rộ.
Các doanh nghiệp này lạc quan tin tưởng rằng với thế mạnh về sản xuất và phân phối, họ sẽ chiếm các vị trí hàng đầu trên phân khúc điện thoại thương hiệu Việt. Thế nhưng nay cả ba đã "không kèn không trống" rút khỏi thị trường.
Theo một kết quả nghiên cứu thị trường của IDC, năm 2011 tổng thị phần của điện thoại thương hiệu Việt chiếm 21%, giảm so với năm 2010 là 24%. Đáng chú ý là, trong quý I/2012 số lượng điện thoại thương hiệu Việt được tiêu thụ giảm rất mạnh (15%) so với quý trước.
Đi tìm lý do thất bại?
Năm 2012 là năm thực sự khó khăn đối với các hãng điện thoại thương hiệu Việt, đã có nhiều hãng có doanh thu giảm mạnh và nhiều hãng đã rời khỏi thị trường. Hiện tại, có rất ít hãng hy vọng "sống" qua được thời kỳ khó khăn và tiếp tục bước đi.
Sức tiêu thụ điện thoại giảm mạnh cộng với sức ép cạnh tranh rất gay gắt từ các hãng điện thoại lớn như Nokia, Samsung và LG, Apple đã khiến cho thị phần của điện thoại thương hiệu Việt bị thu hẹp. Thêm vào đó, hơn một chục thương hiệu Việt cạnh tranh lẫn nhau khiến cho miếng bánh thị phần ngày càng co hẹp.
Một nguyên nhân khác là mức độ hiểu biết về thị trường và người tiêu dùng của doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế.
Thời điểm năm 2011 -2012, khi mà các doanh nghiệp điện thoại Việt chỉ tập trung vào dòng điện thoại giá rẻ, ít cải tiến. Trong khi đó, thời điểm này các nhà sản xuất thế giới như Apple Samsung đã bắt đầu cả tiến công nghệ, đưa ra những sản phẩm điện thoại thông minh với nhiều ứng dụng hữu ích.
Để có được nhiều mẫu mã với giá thành rẻ, các nhà sản xuất trong nước đã thực hiện bằng cách mua một mẫu máy tại Trung Quốc. Sau đó dán thương hiệu của mình lên để phân phối.
Các doanh nghiệp Việt sẽ không mất bất kỳ chi phí nào cho việc phát triển sản phẩm ban đầu. Nhưng điều hạn chế của những sản phẩm này đó chính là chất lượng phần cứng và nâng cấp về phần mềm sau này hoàn toàn phụ thuộc vào đơn vị sản xuất.
Theo các chuyên gia, đã qua rồi cái thời mà doanh nghiệp nào cũng có thể nhập khẩu một lô điện thoại từ Trung Quốc về, dán nhãn Việt Nam và bán ra thị trường. Chiếc điện thoại không còn là một thiết bị chỉ để nghe và gọi, mà là một sự trải nghiệm mang tính cá nhân hóa cao.
Chính vì vậy, muốn được chấp nhận, hơn ai hết doanh nghiệp phải trang bị cho mình những sự hiểu biết sâu sắc về người tiêu dùng. Điều này đòi hỏi sự kiên trì, năng động và thấu đáo.
Hiện tại trên thị trường điện thoại, chỉ còn lác đác một vài thương hiệu Việt được chú ý như: Q-Mobile, Mobiistar, ... và mới đây nhất là Bphone của Bkav.
Bphone của Bkav có chiến lược khác hẳn so với các thương hiệu điện thoại Việt trước đây, với mục đích đánh vào phân khúc smartphone cao cấp, cấu hình mạnh mẽ. Tuy nhiên, liệu Bphone có thành công hay không vẫn là một câu hỏi lớn với nhà sản xuất, khi mà các thương hiệu điện thoại Việt đang vấp phải những khó khăn tình hình kinh doanh xuống dốc.
Nguồn: bizlive
Bình luận