Ngày 3/7/2019, Viện Dinh dưỡng Quốc gia tổ chức Hội thảo công bố kết quả nghiên cứu về “Tình trạng dinh dưỡng, khẩu phần, tần suất và thói quen tiêu thụ thực phẩm của học sinh tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông ở một số tỉnh thành Việt Nam”.
Đây là một nghiên cứu độc lập của Viện Dinh Dưỡng, nhằm đánh giá chính xác thực trạng dinh dưỡng của học sinh ở các độ tuổi các nhau, khu vực địa lý tình trạng xã hội khác nhau, từ đó tìm ra những nguyên nhân và giải pháp cho các vấn đề đề liên quan như thừa cân béo phì và suy dinh dưỡng.
Nghiên cứu cho thấy những bất cập tồn tại trong khía cạnh dinh dưỡng và hoạt động thể lực ở trẻ thuộc các lứa tuổi khác nhau. Theo đó, học sinh tiểu học có khẩu phần ăn uống giàu năng lượng và protein, thậm chí cao hơn nhiều so với ngưỡng khuyến nghị. Nhưng mức độ tham gia các hoạt động thể lực lại thấp, dẫn đến tỷ lệ thừa cân, béo phì ở học sinh tiểu học khá cao, nhất là ở khu vực thành thị.
Trong khi đó, khẩu phần ăn của học sinh ở lứa tuổi trung học hiện chưa đạt ngưỡng khuyến nghị về năng lượng, sắt, kẽm, canxi và các loại vitamin, dẫn đến tỷ lệ thấp còi ở học sinh trung học còn cao.
Phát biểu khai mạc tại buổi hội thảo, PGS.TS Trương Tuyết Mai, Phó Viện trưởng Viện Dinh dưỡng Quốc gia chia sẻ: “Học sinh chiếm trên 1/4 dân số cả nước, là tương lai của đất nước. Nếu muốn cải thiện tầm vóc, thể lực của người Việt Nam thì việc triển khai các can thiệp về sức khỏe học đường nói chung và đặc biệt là dinh dưỡng học đường nói riêng đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Viện Dinh dưỡng thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu nhằm thấy được bức tranh và xu hướng về tình trạng dinh dưỡng của học sinh, từ đó đề xuất những giải pháp thích hợp cho giai đoạn tới nhằm cải thiện yếu tố nguy cơ và tình trạng dinh dưỡng cho học sinh; nâng cao tầm vóc, trí tuệ và sức khỏe người Việt Nam, đáp ứng nguồn lực chất lượng cao trong công cuộc xây dựng phát triển đất nước”.
Kết quả chính của nghiên cứu bao gồm 4 vấn đề. Thứ nhất là tỷ lệ thừa cân béo phì giảm dần theo độ tuổi của học sinh và có khác biệt lớn giữa các khu vực; thứ 2 nhóm thừa cân béo phì có xu hướng tiêu thụ nhiều thực phẩm giàu chất đạm trong khi đó nhóm không thừa cân béo phì lại có xu hướng tiêu thụ các loại đồ uống có đường sản xuất công nghiệp và các thực phẩm có đường; thứ 3, học sinh thừa cân béo phì có xu hướng sử dụng tất cả các nhóm lương thực, thực phẩm ở mức cao hơn so với nhóm học sinh không thừa cân béo phì; thứ 4 là hoạt động thể lực của học sinh hiện đang đối nghịch với tình trạng về cung cấp năng lượng.
Nghiên cứu cũng chỉ ra các yếu tố liên quan đến tình trạng thừa cân béo phì ở trẻ, bao gồm tuổi, giới tính, khu vực sinh sống, điều kiện kinh tế xã hội và trình độ văn hóa của bố mẹ,.. Chế độ ăn uống và sinh hoạt cũng liên quan trực tiếp đến tình trạng này. Thường xuyên ngồi trước màn hình, sử dụng nhiều đồ uống có đường chế biến và bán trên đường phố (như nước mía, nước đá bào siro, trà sữa...) làm tăng nguy cơ thừa cân béo phì.
Đáng chú ý, nghiên cứu cho thấy nhóm không thừa cân béo phì lại có xu hướng tiêu thụ các loại đồ uống có đường sản xuất công nghiệp và các thực phẩm có đường nhiều hơn so với nhóm thừa cân béo phì. Ngược lại, nhóm thừa cân béo phì lại có tần suất tiêu thụ các loại đồ uống đường phố cao hơn so với nhóm không thừa cân béo phì.
Theo nghiên cứu, tần suất sử dụng đồ uống có đường trên đường phố là một yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh thừa cân béo phì của học sinh trung học phổ thông lên 1,4 lần .
Tại hội thảo, PGS.TS Trần Thúy Nga, Chuyên gia nghiên cứu Viện Dinh dưỡng Quốc gia, chủ nhiệm đề tài nghiên cứu đã đưa ra một số khuyến nghị: “Cần định hướng các chương trình can thiệp phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em ở vùng nông thông và phòng chống thừa cân béo phì ở khu vực thành thị, tăng cường truyền thông giáo dục tại nhà trường về chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng cân đối, hợp lý.
Bên cạnh đó, gia đình, nhà trường và các ban ngành cần tạo điều kiện cho trẻ bữa ăn lành mạnh, cân đối, tạo sân chơi để trẻ vận động, chơi thể thao, đảm bảo giấc ngủ hàng ngày cho trẻ”.
Nghiên cứu được thực hiện trong 12 tháng trên 5.028 học sinh từ 7 đến 17 tuổi tại 75 trường học tại thành phố Hà Nội, TP.HCM, Thái Nguyên, Nghệ An và Sóc Trăng.
Bình luận