(VTC News) - Một lần bỏ trốn không thành, Mùi bị hắn trừng phạt bằng cách dùng dao xẻo tai.
Kỳ 1: Cô gái bất hạnh và người lính lê dương
Xưa kia, Làng Xã Hội, giờ là Trung tâm Bảo trợ Xã hội Phú Thọ (xã Yên Kiện, Đoan Hùng, Phú Thọ) là nơi tập trung, nuôi dưỡng những người vợ lính lê dương và những đứa con lai bị bỏ rơi.
Chiến tranh kết thúc, những người vợ lính lê dương đều đã tìm cách xuất ngoại theo chồng, hoặc tìm đến vùng khác định cư để quên đi quá khứ tủi hổ với cái tiếng mà người đời gán cho là vợ giặc.
Tuy nhiên, nơi rừng xanh núi đỏ này vẫn còn những người đàn bà từng là vợ lính lê dương và mấy chục người con lai bám trụ sinh sống.
Bà Lê Thị Mùi gầy còm, xơ xác, song trên khuôn mặt vẫn ẩn hiện những nét thanh tú của một người đàn bà đẹp cách đây mấy mươi năm. Cuộc đời bà là thân phận điển hình chìm nổi của kiếp phụ nữ trong chiến tranh, loạn lạc.
Bà Lê Thị Mùi sinh ra ở Quảng Ninh, nhưng cụ thể ở xã nào, huyện nào thì bà không nhớ. Năm 1945, khi ấy mới khoảng 5-6 tuổi, quân Nhật đổ bộ bằng đường biển vào Hải Phòng, Quảng Ninh. Ngày đó, phát xít Nhật rất hung bạo, hễ nghi ngờ ai là nổ súng bắn liền.
Bố Mùi bị gục gã trước làn đạn khi đang cùng mẹ con Mùi chạy giặc, còn mẹ Mùi không biết lưu lạc nơi đâu. Một người thương bé bơ vơ đã dẫn ra Hải Phòng rồi xin cho công việc ô sin.
Suốt 10 năm trời bé Mùi cứ lang thang hết gia đình này đến gia đình khác để ở đợ, làm mướn sống qua ngày. Có năm bé đen đủi ở phải gia đình địa chủ tàn ác tên Năm, đánh đập bé suốt ngày.
Một lần bé bỏ trốn, nhưng bị hắn bắt lại. Hắn dùng dây thép gai buộc chân bé rồi treo bé lên xà nhà đánh đập. Một lần khác bỏ trốn không thành, Mùi bị hắn trừng phạt bằng cách dùng dao xẻo tai. Sợ tôi không tin, bà Mùi vén mái tóc lên và tôi hãi hùng nhận ra tai trái của bà chỉ còn không quá một nửa.
Ngày quân ta tiếp quản Hải Phòng cũng là ngày Mùi đổi đời, từ một kẻ ở đợ trở thành thanh niên xung phong. Cùng với hàng ngàn thiếu nữ đất cảng, Mùi có mặt ở khắp các tỉnh như Lào Cai, Lạng Sơn, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An... nơi có những tuyến đường sắt thường xuyên bị bom đạn quân thù bắn phá. Năm 1958, theo điều động, Mùi về Ba Vì và làm công nhân ở nông trường chè.
Năm ấy, ở cạnh nông trường chè, nơi Mùi làm công nhân có một nông trường mang tên Việt Phi 1, hay còn gọi là trại Việt Nam Mới. Nơi này quản lý, cải tạo hàng binh Pháp.
Tại đây, Mùi đã gặp một hàng binh người Marốc rất đẹp trai tên là Mohamet Mizit. Họ yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên nơi đồi chè ngàn ngạt gió.
Đám cưới được chính quyền tổ chức, chỉ có bánh kẹo, nước chè, song cả hai đều cảm thấy hạnh phúc, mãn nguyện.
Sau 10 năm sống chung, vợ chồng Mùi sinh được 3 người con trai gồm Lê Tuấn Bình (Mohamet Bennaly), Lê Văn Chiến (Mohamet Bennaptala) và Lê Văn Đường (Mohamet Budama).
Năm 1968, giặc Mỹ liên tục bắn phá Miền Bắc. Khu vực Ba Vì, Sơn Tây thường xuyên bị máy bay Mỹ oanh tạc. Để đảm bảo mạng sống cho công nhân và hàng binh, nông trường Việt Phi 1 di chuyển lên vùng rừng núi rậm rạp Yên Bái và lấy tên là nông trường Việt Phi 2. Được sự rèn luyện, dạy dỗ của cha, mấy anh em đều nói thành thạo tiếng Marốc.
Đối với Mohamet Mazit, quân giặc chính là thực dân Pháp. Thực dân Pháp không những xâm chiếm, giết chóc người Marốc mà còn bắt hết thanh niên Marốc sang Việt Nam và một số chiến trường khác làm bia đỡ đạn cho chúng.
Ông Mizit vẫn tự hào kể cho các con nghe về gia đình ở bên Marốc. Dòng họ quản lý một lúc nhiều công ty lớn, có máy bay riêng, sở hữu riêng một sân vận động ở thành phố Caracat.
Lúc 20 tuổi, Mizit đã là trợ lý của cha và tương lai sẽ trở thành tổng giám đốc. Tuy nhiên, một ngày mùa đông, khi Mizit đang đi trượt tuyết cùng ba người bạn là Mohamet Benlasa, Mohamet Main và Mohamet Bưnlưpxia, toàn là con cháu quý tộc, thì bị lính Pháp vây bắt.
4 thanh niên bị trói gô chân tay và bị bịt mắt suốt 8 ngày đêm. Khi nhìn thấy anh sáng mới biết mình đang ở một đất nước nhiệt đới xa xôi mà chưa bao giờ nghe nhắc đến. Mizit cùng hàng vạn thanh niên Marốc phải cầm súng bắn vào những người dân da vàng, trong khi họ đều ý thức rằng, kẻ thù thực sự của họ chính là thực dân Pháp.
Cuộc sống ở vùng rừng Yên Bái tuy vất vả, nhưng vợ chồng bà Mùi rất yêu thương nhau. Ông Mizit ngày ngày cùng mấy người con vào rừng hái măng, lấy củi. Tuy nhiên, một nỗi đau lớn bất chợt ập đến khi ông Mizit mắc bệnh xơ gan cổ trướng.
Thân bà gầy còm, lê lết dìu ông chồng cao gần mét chín, nặng tám mươi cân đi hết viện này đến viện nọ, song các bác sĩ đều lắc đầu bảo bệnh đã ở giai đoạn cuối, không có cách nào cứu được.
Giữa những ngày mưa bom bão đạn khắp miền Bắc thì ông Mizit tắt thở ở bệnh viện sơ tán trên Yên Bái. Mấy mẹ con ôm xác ông chôn trong rừng.
Chiến tranh loạn lạc, mấy mẹ con bà Mùi cứ sơ tán hết vùng này đến vùng khác và điểm cuối cùng là Làng Xã Hội, thuộc huyện Đoan Hùng, Phú Thọ. Khi quay lại Nông trường Việt Phi 2, bà Mùi không còn biết mình đã chôn xác chồng ở đâu.
Năm 1972, Nhà nước có chính sách nhân đạo là đưa hàng binh và con cháu của họ về nước toàn tụ. 3 anh em Bình cũng nằm trong diện được đi.
Trước khi nhắm mắt, ông Mazit đã kịp liên lạc về Marốc thông báo cho cha và hai người chị gái biết rằng, mình còn có người vợ và ba đứa con ở Việt Nam, do vậy, ông nội của anh em Bình đã liên lạc sang Đại sứ quán ở Việt Nam và nhờ họ đưa con dâu cùng mấy người cháu về nước.
Tuy nhiên, bà Mùi đã không đi, mà chỉ cho hai người con là Bình và Chiến sang đó, những mong con mình được đổi đời.
Bình và Chiến được đưa xuống Hà Nội cùng 800 đứa trẻ để làm thủ tục về Marốc. Tuy nhiên, khi máy bay chuẩn bị cất cánh, người ta điểm danh thấy thiếu hai đứa trẻ.
Rồi một buổi tối, bà Mùi thấy hai đứa con của mình ba lô túi xách, quần áo bẩn thỉu, khuôn mặt nhem nhuốc tìm về nhà. Bình bảo: "Chúng con thương mẹ và em không ai nuôi dưỡng nên không đi nữa".
Bà Mùi tức giận sôi máu. Bà cứ tưởng chúng đã sang đến Marốc rồi, nào ngờ... Nhưng bà chợt ôm hai đứa con vào lòng khóc nức nở. Bà chỉ mong chúng được hưởng sung sướng ở trời Tây, chứ không nỡ để chúng phải nhọc nhằn nơi rừng xanh núi đỏ. Nhưng chúng đi rồi, liệu có cơ hội tìm về? Vậy chẳng khác nào mất con. Nghĩ thế bà cũng thấy được an ủi.
Ba người con của bà Mùi tuy không giàu sang lắm, song cũng đều đã có cuộc sống riêng đầm ấm ở đây.
Hơn ba mươi năm nay, mỗi lần nghĩ đến ông Mizit, lòng bà Mùi lại quặn đau. Năm nào bà cũng dò la tin tức để tìm mộ chồng, mong trước lúc chết được đoàn tụ, nhưng giữa rừng già thăm thẳm, bà biết tìm ở đâu. Mấy người con thương mẹ, thi thoảng cũng tìm lên Yên Bái rồi cố gắng lục lại trí nhớ, song chỉ là vô vọng.
Còn tiếp...
Phong Bình
Kỳ 1: Cô gái bất hạnh và người lính lê dương
Xưa kia, Làng Xã Hội, giờ là Trung tâm Bảo trợ Xã hội Phú Thọ (xã Yên Kiện, Đoan Hùng, Phú Thọ) là nơi tập trung, nuôi dưỡng những người vợ lính lê dương và những đứa con lai bị bỏ rơi.
Chiến tranh kết thúc, những người vợ lính lê dương đều đã tìm cách xuất ngoại theo chồng, hoặc tìm đến vùng khác định cư để quên đi quá khứ tủi hổ với cái tiếng mà người đời gán cho là vợ giặc.
Tuy nhiên, nơi rừng xanh núi đỏ này vẫn còn những người đàn bà từng là vợ lính lê dương và mấy chục người con lai bám trụ sinh sống.
Bà Lê Thị Mùi gầy còm, xơ xác, song trên khuôn mặt vẫn ẩn hiện những nét thanh tú của một người đàn bà đẹp cách đây mấy mươi năm. Cuộc đời bà là thân phận điển hình chìm nổi của kiếp phụ nữ trong chiến tranh, loạn lạc.
Bà Lê Thị Mùi sinh ra ở Quảng Ninh, nhưng cụ thể ở xã nào, huyện nào thì bà không nhớ. Năm 1945, khi ấy mới khoảng 5-6 tuổi, quân Nhật đổ bộ bằng đường biển vào Hải Phòng, Quảng Ninh. Ngày đó, phát xít Nhật rất hung bạo, hễ nghi ngờ ai là nổ súng bắn liền.
Bà Lê Thị Mùi |
Bố Mùi bị gục gã trước làn đạn khi đang cùng mẹ con Mùi chạy giặc, còn mẹ Mùi không biết lưu lạc nơi đâu. Một người thương bé bơ vơ đã dẫn ra Hải Phòng rồi xin cho công việc ô sin.
Suốt 10 năm trời bé Mùi cứ lang thang hết gia đình này đến gia đình khác để ở đợ, làm mướn sống qua ngày. Có năm bé đen đủi ở phải gia đình địa chủ tàn ác tên Năm, đánh đập bé suốt ngày.
Một lần bé bỏ trốn, nhưng bị hắn bắt lại. Hắn dùng dây thép gai buộc chân bé rồi treo bé lên xà nhà đánh đập. Một lần khác bỏ trốn không thành, Mùi bị hắn trừng phạt bằng cách dùng dao xẻo tai. Sợ tôi không tin, bà Mùi vén mái tóc lên và tôi hãi hùng nhận ra tai trái của bà chỉ còn không quá một nửa.
Ngày quân ta tiếp quản Hải Phòng cũng là ngày Mùi đổi đời, từ một kẻ ở đợ trở thành thanh niên xung phong. Cùng với hàng ngàn thiếu nữ đất cảng, Mùi có mặt ở khắp các tỉnh như Lào Cai, Lạng Sơn, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An... nơi có những tuyến đường sắt thường xuyên bị bom đạn quân thù bắn phá. Năm 1958, theo điều động, Mùi về Ba Vì và làm công nhân ở nông trường chè.
Năm ấy, ở cạnh nông trường chè, nơi Mùi làm công nhân có một nông trường mang tên Việt Phi 1, hay còn gọi là trại Việt Nam Mới. Nơi này quản lý, cải tạo hàng binh Pháp.
Bà Mùi và vợ chồng người con trai cả |
Tại đây, Mùi đã gặp một hàng binh người Marốc rất đẹp trai tên là Mohamet Mizit. Họ yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên nơi đồi chè ngàn ngạt gió.
Đám cưới được chính quyền tổ chức, chỉ có bánh kẹo, nước chè, song cả hai đều cảm thấy hạnh phúc, mãn nguyện.
Sau 10 năm sống chung, vợ chồng Mùi sinh được 3 người con trai gồm Lê Tuấn Bình (Mohamet Bennaly), Lê Văn Chiến (Mohamet Bennaptala) và Lê Văn Đường (Mohamet Budama).
Năm 1968, giặc Mỹ liên tục bắn phá Miền Bắc. Khu vực Ba Vì, Sơn Tây thường xuyên bị máy bay Mỹ oanh tạc. Để đảm bảo mạng sống cho công nhân và hàng binh, nông trường Việt Phi 1 di chuyển lên vùng rừng núi rậm rạp Yên Bái và lấy tên là nông trường Việt Phi 2. Được sự rèn luyện, dạy dỗ của cha, mấy anh em đều nói thành thạo tiếng Marốc.
Đối với Mohamet Mazit, quân giặc chính là thực dân Pháp. Thực dân Pháp không những xâm chiếm, giết chóc người Marốc mà còn bắt hết thanh niên Marốc sang Việt Nam và một số chiến trường khác làm bia đỡ đạn cho chúng.
Ông Mizit vẫn tự hào kể cho các con nghe về gia đình ở bên Marốc. Dòng họ quản lý một lúc nhiều công ty lớn, có máy bay riêng, sở hữu riêng một sân vận động ở thành phố Caracat.
Lúc 20 tuổi, Mizit đã là trợ lý của cha và tương lai sẽ trở thành tổng giám đốc. Tuy nhiên, một ngày mùa đông, khi Mizit đang đi trượt tuyết cùng ba người bạn là Mohamet Benlasa, Mohamet Main và Mohamet Bưnlưpxia, toàn là con cháu quý tộc, thì bị lính Pháp vây bắt.
4 thanh niên bị trói gô chân tay và bị bịt mắt suốt 8 ngày đêm. Khi nhìn thấy anh sáng mới biết mình đang ở một đất nước nhiệt đới xa xôi mà chưa bao giờ nghe nhắc đến. Mizit cùng hàng vạn thanh niên Marốc phải cầm súng bắn vào những người dân da vàng, trong khi họ đều ý thức rằng, kẻ thù thực sự của họ chính là thực dân Pháp.
Cuộc sống ở vùng rừng Yên Bái tuy vất vả, nhưng vợ chồng bà Mùi rất yêu thương nhau. Ông Mizit ngày ngày cùng mấy người con vào rừng hái măng, lấy củi. Tuy nhiên, một nỗi đau lớn bất chợt ập đến khi ông Mizit mắc bệnh xơ gan cổ trướng.
Thân bà gầy còm, lê lết dìu ông chồng cao gần mét chín, nặng tám mươi cân đi hết viện này đến viện nọ, song các bác sĩ đều lắc đầu bảo bệnh đã ở giai đoạn cuối, không có cách nào cứu được.
Giữa những ngày mưa bom bão đạn khắp miền Bắc thì ông Mizit tắt thở ở bệnh viện sơ tán trên Yên Bái. Mấy mẹ con ôm xác ông chôn trong rừng.
Anh Lê Tuấn Bình, con trai cả của bà Mùi với người lính dê dương |
Chiến tranh loạn lạc, mấy mẹ con bà Mùi cứ sơ tán hết vùng này đến vùng khác và điểm cuối cùng là Làng Xã Hội, thuộc huyện Đoan Hùng, Phú Thọ. Khi quay lại Nông trường Việt Phi 2, bà Mùi không còn biết mình đã chôn xác chồng ở đâu.
Năm 1972, Nhà nước có chính sách nhân đạo là đưa hàng binh và con cháu của họ về nước toàn tụ. 3 anh em Bình cũng nằm trong diện được đi.
Trước khi nhắm mắt, ông Mazit đã kịp liên lạc về Marốc thông báo cho cha và hai người chị gái biết rằng, mình còn có người vợ và ba đứa con ở Việt Nam, do vậy, ông nội của anh em Bình đã liên lạc sang Đại sứ quán ở Việt Nam và nhờ họ đưa con dâu cùng mấy người cháu về nước.
Tuy nhiên, bà Mùi đã không đi, mà chỉ cho hai người con là Bình và Chiến sang đó, những mong con mình được đổi đời.
Bình và Chiến được đưa xuống Hà Nội cùng 800 đứa trẻ để làm thủ tục về Marốc. Tuy nhiên, khi máy bay chuẩn bị cất cánh, người ta điểm danh thấy thiếu hai đứa trẻ.
Rồi một buổi tối, bà Mùi thấy hai đứa con của mình ba lô túi xách, quần áo bẩn thỉu, khuôn mặt nhem nhuốc tìm về nhà. Bình bảo: "Chúng con thương mẹ và em không ai nuôi dưỡng nên không đi nữa".
Bà Mùi tức giận sôi máu. Bà cứ tưởng chúng đã sang đến Marốc rồi, nào ngờ... Nhưng bà chợt ôm hai đứa con vào lòng khóc nức nở. Bà chỉ mong chúng được hưởng sung sướng ở trời Tây, chứ không nỡ để chúng phải nhọc nhằn nơi rừng xanh núi đỏ. Nhưng chúng đi rồi, liệu có cơ hội tìm về? Vậy chẳng khác nào mất con. Nghĩ thế bà cũng thấy được an ủi.
Ba người con của bà Mùi tuy không giàu sang lắm, song cũng đều đã có cuộc sống riêng đầm ấm ở đây.
Hơn ba mươi năm nay, mỗi lần nghĩ đến ông Mizit, lòng bà Mùi lại quặn đau. Năm nào bà cũng dò la tin tức để tìm mộ chồng, mong trước lúc chết được đoàn tụ, nhưng giữa rừng già thăm thẳm, bà biết tìm ở đâu. Mấy người con thương mẹ, thi thoảng cũng tìm lên Yên Bái rồi cố gắng lục lại trí nhớ, song chỉ là vô vọng.
Còn tiếp...
Phong Bình
Bình luận