Những ngày qua, dư luận cả nước xôn xao vụ việc Hoa hậu người Việt tại Nga năm 2007 – Trương Hồ Phương Nga bị TAND TP HCM xét xử tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Người tố cáo hoa hậu Phương Nga là ông Cao Toàn Mỹ - Giám đốc Công ty Cổ phần Tin học Không gian ảo (VinaCyber JSC). Ông Mỹ tố cáo bà Phương Nga lừa đảo số tiền 16,5 tỷ đồng, mà ông nhờ bà Nga mua giúp ngôi nhà ở TP HCM.
Tuy nhiên, trong phiên xét xử sơ thẩm ngày 21/9, bà Nga khai nhận tại tòa rằng, số tiền 16,5 tỷ đồng mà ông Mỹ chuyển cho bà không phải tiền mua nhà mà thực chất đó là tiền thanh toán "Hợp đồng tình ái". Hợp đồng có "điều khoản" là Nga phải quan hệ tình cảm với bị hại trong 7 năm tính từ năm 2012.
Ngoài ra, bị cáo Nguyễn Đức Thùy Dung (ngụ tại TP.HCM) người bị tố cáo cùng bà Nga khai cũng đã đọc được "Hợp đồng tình ái" này nhưng tên hợp đồng đó là "Hợp đồng tình dục".
Sau lời khai chấn động của bà Nga, trên mạng xã hội và một số trang báo điện tử đăng tải nhiều ảnh chụp màn hình được cho là thư điện tử (email) trao đổi giữa ông Mỹ (địa chỉ email: [email protected]) và bà Nga.
Căn cứ vào quy định này, nếu ông Cao Toàn Mỹ trả tiền cho bà Trương Hồ Phương Nga chỉ nhằm mục đích giao cấu và bà Nga nhận tiền của ông Mỹ để giao cấu với ông Mỹ thì đây là hành vi mua dâm, bán dâm.
Luật sư Giang Hồng Thanh
Nội dung trao đổi email nói về việc thỏa thuận giữa 2 người về bản hợp đồng “tình ái” có giá trị trong 7 năm, bắt đầu từ năm 2012. Theo đó, email [email protected] nêu rõ những yêu cầu về tình dục của mình và phía bà Nga phải đáp ứng đúng, để được nhận số tiền mà cả 2 đã thỏa thuận.
Việc hợp đồng có tồn tại thật hay không, cơ quan sẽ điều tra làm rõ, nhưng đặt giả thiết, có một hợp đồng như vậy, thì tính pháp lý sẽ được đặt ra thế nào? Nếu lời khai bà Nga là đúng thì đại gia Cao Toàn Mỹ có bị xử lý về hành vi “Mua bán dâm” hay không? Hay có vi phạm quy định nào của pháp luật không? Vì ông Mỹ là người đã có gia đình… Đó là những băn khoăn của dư luận sau khi sự việc này “nổ” ra.
Trao đổi với PV VTC News, Luật sư Giang Hồng Thanh - Văn phòng luật sư Giang Thanh cho biết: Theo Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm 2003, “Mại dâm” là hành vi mua dâm, bán dâm. Còn “Mua dâm” là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu và “Bán dâm” là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác.
Căn cứ vào quy định này, nếu ông Cao Toàn Mỹ trả tiền cho bà Trương Hồ Phương Nga chỉ nhằm mục đích giao cấu và bà Nga nhận tiền của ông Mỹ để giao cấu với ông Mỹ thì đây là hành vi mua dâm, bán dâm.”
Luật sư nói thêm, tuy nhiên kết luận cuối cùng phải ở cơ quan điều tra. “Giả sử cơ quan chức năng chứng minh được đây là hành vi mua bán dâm thì người thực hiện hành vi này sẽ bị xử phạt hành chính theo Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013” – ông Thanh nói.
Video: Vợ cầm dao đâm chồng ngoài phố vì phát hiện ngoại tình
Luật sư lưu ý, “Hợp đồng tình ái” mới chỉ là lời khai một chiều từ phía bà Nga. Nếu ngoài lời khai này bà Nga không có bất cứ chứng cứ nào khác thì cũng không thể khẳng định số tiền ông Mỹ đưa cho bà Nga là dành cho hợp đồng này. Và nếu ngoài mục đích giao cấu, các bên còn có các mục đích khác như quan hệ yêu đương, tình cảm, quan tâm, chăm sóc nhau... thì đó không phải là hành vi mại dâm.
“Tuy nhiên, trong trường hợp này, nếu ông Mỹ vẫn đang tồn tại hôn nhân hợp pháp thì ông Mỹ, bà Nga đã vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng.
Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 “Điều 22. Hành vi mua dâm
1. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi mua dâm.
2. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng trong trường hợp mua dâm nhiều người cùng một lúc.
3. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi lôi kéo hoặc ép buộc người khác cùng mua dâm.
Điều 23. Hành vi bán dâm
1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với hành vi bán dâm.
2. Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng trong trường hợp bán dâm cho nhiều người cùng một lúc.
3. Người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này, thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
Bình luận