• Zalo

Có gì trong những ngôi mộ đắp to như núi ở Thái Bình?

Phóng sự - Khám pháThứ Năm, 14/03/2019 06:50:00 +07:00Google News

Ông Hùng quan sát được quách đá nguyên vẹn, đường hầm và có cả những súc gỗ lớn đóng cũi, giống với mộ cũi thời Bắc thuộc và thời Trần.

Kỳ trước, phóng sự Những bí ẩn 700 năm chưa được giải mã trong ba ‘quả đồi’ ở Thái Bình đã chép lại những câu chuyện kỳ bí, thú vị quanh 3 gò mộ vua Trần ở xã Tiến Đức (Hưng Hà, Thái Bình). Kỳ này, loạt phóng sự của nhà báo Phạm Dương Ngọc tiếp tục giải mã những bí ẩn quanh 3 ngôi mộ khổng lồ này…

>>> Đọc kỳ 1: Cuộc tàn phá "nghĩa địa" nhà Trần

Kỳ 2 (kỳ cuối): Vì sao nhà Trần đắp mộ khổng lồ?

Làng Tam Đường xưa có tên là Thái Đường. Sở dĩ gọi là Tam Đường vì làng gộp lại từ ba thôn Phúc Đường, Ngọc Đường và Thái Đường. Theo nhà nghiên cứu Đặng Hùng, từ xa xưa, người Việt cổ đã đến đây, dựa vào các gò đống (đất nổi) để sinh sống bằng nghề đánh cá, trồng lúa lốc. Thói quen trồng lúa lốc vẫn còn đến đầu thế kỷ 20.

Quá trình bồi đắp của phù sa sông Hồng khiến ngôi làng này có hình thế “Tiền tam thai, hậu thất tinh”, là đất phát tướng, phát vương, theo quan niệm của các thầy địa lý Tàu. Vào thời ấy, có thầy địa lý thường đi tìm thế đất để đặt mộ cho các nhà quyền quý. Đến vùng Tinh Cương (Tam Đường), thấy thế đất đẹp, liền báo cho nhà Nguyễn. Nhưng người họ Nguyễn không tin, lừa cho say rượu rồi đêm tối trói lại quẳng xuống sông Hồng.

Vào cuối thế kỷ 12, cụ Trần Kinh, từ đất Yên Sinh (An Sinh, Đông Triều, Quảng Ninh) đi đánh cá đến tận vùng Tức Mặc (Nam Định). Thấy cảnh bãi bồi rộng lớn, đất đai phì nhiêu nên dừng chân lập trang ấp sinh nhai. Cụ lấy vợ ở đây, sinh ra Trần Hấp. Trần Hấp cũng giỏi nghề chài lưới. Khi cha mất, Trần Hấp chỉ đạo đội quân chài lưới kéo xuống tận ngã ba sông Hồng và sông Luộc đánh cá. Đang đánh cá, nghe tiếng kêu cứu, Trần Hấp cứu được thầy địa lý. Thầy địa lý thuật lại sự tình, rồi nói: “Đội ơn cứu mạng, già này xin được biếu một nơi cát địa để báo đền”.

Theo chỉ dẫn của thầy, vào thời Lý Thần Tông, chọn ngày Tân Dậu, tháng Đinh Tỵ, Trần Hấp đã di dời mộ tổ từ Tức Mặc (Nam Định) về táng vào gò hỏa tinh ở đất Tinh Cương. Thế đất được mô tả như sau:“Phấn đại dương giao chiếu/ Liên hoa, dĩ sắc đắc thiên hạ” (Dịch nghĩa:“Phấn son cùng chiếu rọi/ Trước mặt nở hoa sen”, nghĩa là sau này ắt nhờ người phụ nữ có nhan sắc mà đoạt được thiên hạ).

e

 Cổng đền Trần ở Thái Bình.

Cuộc chuyển mộ cực kỳ tốn kém, tốn tới 1.000 hốt bạc. Xong xuôi việc đặt mộ, Trần Hấp di dời toàn bộ gia đình từ Tức Mặc về hương Tinh Cương. Ngày đi đánh cá, đêm về căn chòi bên mộ cha để trông nom, chăm sóc.

Tính từ khi chuyển mộ đến khi Trần Hấp lấp vợ là 28 năm. Ông sinh ra Trần Lý, Trần Lý sinh Trần Thừa, Trần Tự Khánh, Trần Thị Dung… Trần Thừa sinh Trần Liễu, Trần Cảnh, Trần Nhật Hiệu (Hạo). 

Đến đời Trần Lý, dòng họ Trần đã giàu có và nổi tiếng khắp vùng. Vì có loạn Quách Bốc ở kinh thành, Trần Lý đã đón Hoàng hậu Đàm Thị cùng Thái tử Sảm về sống ở Lưu Gia (Lưu Xá), là gia trang giàu có nhất nước của Trần Lý, cách Thái Đường 4km. 

Theo nhà nghiên cứu Đặng Hùng, trong thời gian lánh giặc ở đây, Thái tử Sảm đã đem lòng yêu và lấy Trần Thị Dung, người con gái tài sắc vẹn toàn nhất thiên hạ lúc bấy giờ. 

Vua Lý Cao Tông mất, Thái tử Sảm lên ngôi, phong cho Trần Lý (bố vợ) tước Minh Tự và phong chức Điện Tiền chỉ huy sứ cho cậu vợ là Tô Trung Từ (vốn là võ quan của triều Lý). Trần Thị Dung nghiễm nhiên trở thành bậc mẫu nghi thiên hạ. Họ Trần dốc lòng giúp vua Lý dẹp loạn Quách Bốc, Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng… 

Trần Thị Dung sinh được hai công chúa, Chiêu Hoàng và Thuận Thiên. Năm 1225, Chiêu Hoàng (lúc này đang làm vua) đã nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Từ đó họ Trần làm vua ở Việt Nam, trải 175 năm (1225-1400). Tính từ khi Trần Hấp di dời mộ cha về hương Tinh Cương, đến khi nhà Trần lên ngôi là 70 năm.

Tập tục và tâm lý của người Việt Nam xưa và nay luôn có nguyện vọng là lúc nhắm mắt xuôi tay được trở về nơi quê cha đất tổ để phần mộ được đời đời con cháu trông nom. Mỗi khi vua Trần mất đi, thi hài được táng ở vùng đất phát nghiệp, với ước mong con cháu đời đời nắm giữ ngôi báu. 

f

 Lễ rước nước đầu năm ở đền Trần.

Tại đây, nhà Trần cho xây dựng Thọ Lăng, Chiêu Lăng, Dụ Lăng, Đức Lăng vô cùng hoành tráng, là nơi an táng Thái Thượng hoàng Trần Thừa, vua Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Thánh Tông… Tuyên Từ Hoàng Thái hậu và vua Hiển Tông cũng được an táng ở An Lăng. 

Tại làng Thái Đường thuộc phủ Long Hưng còn xây các cung điện Tinh Cương, Hưng Khánh, Diên An, Diên Hiển, Thềm Thiên Trì… Bến Ngự là nơi các vua Trần đi thuyền từ Thăng Long về quê hương Tam Đường tế tổ tiên.

Theo ông Cường, Phó ban quản lý di tích đền Trần, các nhà khoa học đã đào thám sát nhiều nơi trong vùng và chỉ đào sâu xuống lòng đất chừng 1m là phát hiện dấu tích di chỉ khảo cổ. Hệ thống thành quách ở đây hoành tráng không kém gì Thăng Long. 

Một công trình rất vĩ đại, ấy là nhà Trần đã đào một con sông lớn, giờ gọi là sông Thái Sư bao quanh thành, vừa để làm đường thủy, phục vụ việc đi lại, vừa là hào sâu cản bước quân giặc.

Cuối đời Trần, đất nước nhiều lúc lâm nguy, nạn giặc dã tàn phá lăng mộ, nên năm 1381, triều đình nhà Trần đã rước thần tượng ở một số lăng về vùng đất Yên Sinh (Đông Triều, Quảng Ninh). 

Hiện ở làng Tam Đường còn lại 3 ngôi mộ khổng lồ, nguyên vẹn, gọi là Phần Bụt, Phần Trung và Phần Đa. Đáng lưu ý là nấm mộ có tên Phần Bụt, to như quả đồi, án ngữ phía Nam làng Tam Đường. 

Mặc dù đã bị tàn phá nhiều lần, 700 năm mưa gió mài mòn, song quy mô ngôi mộ vẫn còn rất lớn. Cách đây mấy chục năm, ngôi mộ bị đào bới, quách gỗ và quách đá lộ ra.

b 3

Một phần mộ to như quả đồi ở cánh đống trước đền Trần. 

Tương truyền, mộ phần Bụt đã từng bị Ô Mã Nhi cho lính khai quật. Khi đào đến phần quách đá thì mây đen vần vũ, sét đánh xuống sáng lòa cả vùng. Quân giặc cho rằng thần linh quở trách nên giặc sợ không dám đào tiếp.

Cũng vì lẽ đó mà khi đem bọn Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp về tế mộ tổ ở Thái Đường, vua Trần Nhân Tông trước cảnh lăng mộ tổ tiên bị đào bới, ngựa đá lấm bùn, nên đã tức cảnh làm hai câu thơ nổi tiếng: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã/ Sơn hà thiên cổ điện kim âu” (Đất nước hai phen chồn ngựa đá/ Non sông ngàn thủa vững âu vàng).

Di cốt 3 vị vua Trần ở Thái Bình hay Quảng Ninh?

Cách đây mấy chục năm còn có ngôi mộ tên Phần Cựu, quy mô cực kỳ to lớn. Nhưng ngôi mộ này đã được khai quật. Theo ông Hùng, các nhà sử học đã xác nhận đó là mộ thời Trần, và ngôi mộ đó của Trần Thừa. Hiện quan tài, ngọc cốt vẫn giữ ở Bảo tàng Thái Bình.

Nhà nghiên cứu Đặng Hùng đoán rằng, ngôi mộ mà nhân dân gọi là Phần Bụt, có thể là mộ của vua Trần Nhân Tông. Ông lý giải thế này: Bụt có thể hiểu là Phật. Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong tác phẩm "Theo gót chân Bụt", thì lúc đầu, khi giác ngộ chân lý của đạo Phật, Đức Phật Tổ cho rằng đạo của người là đạo "Tỉnh thức". "Tỉnh thức" nói theo tiếng Magadhi là Budn (tức là Bụt).

Với những suy luận trên, ông Hùng cho rằng, rất có thể ngôi mộ có tên Phần Bụt theo cách gọi truyền miệng của nhân dân làng Tam Đường, chính là mộ của đức vua Trần Nhân Tông. Ngôi mộ trải 700 năm đã bị mài mòn khá thấp, nhưng mấy chục năm trước đã được nhân dân sửa sang, tôn đắp.

a 4

 Một phần mộ lớn trong khuôn viên đền Trần.

Trong cuộc khai quật ngôi mộ Phần Cựu, các nhà khoa học mô tả ngôi mộ như sau: Dưới cùng, trong lõi ngôi mộ là quách gỗ, gồm những súc gỗ lim lớn, xếp thành căn phòng nhỏ, kín khít trong lòng đất. Lớp đất sét được đắp kín quách gỗ. Trên lớp đất sét là vách đá. Hàng ngàn mét khối cát sỏi rải xung quanh và lấp kín vách đá. Trên lớp cát sỏi lại có một lớp đất sét dày, nện rất chặt.

Cho đến nay, dù cuộc khai quật đã trải qua 30 năm, song những bí ẩn trong ngôi mộ vua khổng lồ vẫn chưa được sáng tỏ, các tài liệu vẫn nằm im, phủ bụi trong bảo tàng. Các ngôi mộ vua vẫn nằm đó, trơ trọi giữa cánh đồng và cũng chưa chắc chắn là mộ của vị vua nào.

Lần giở các tài liệu lịch sử, mới biết, năm 1381, nhà Trần đã cho chuyển lăng mộ của các tiên đế từ Long Hưng (Thái Bình) về An Sinh (Đông Triều, Quảng Ninh). Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Tháng 6, rước thần tượng các lăng ở Quắc Hương (Nam Định), Thái Đường (Hưng Hà, Thái Bình), Long Hưng, Kiến Xương đưa về lăng lớn ở Yên Sinh để tránh nạn người Chiêm Thành vào cướp”.

Phần lớn các nhà sử học hàng đầu Việt Nam đều khẳng định nhà Trần đã đưa cốt các vua từ làng Tam Đường về xã An Sinh, rồi xây dựng khu lăng mộ lớn là Lăng Tư Phúc, xây dựng điện thờ lớn là điện An Sinh để thờ tự các vị vua này. Như vậy, hài cốt (nếu còn), tro cốt, hoặc xá lị của các vị vua nằm trong các ngôi mộ khổng lồ này đã được quật lên chuyển về An Sinh dưới chân núi Yên Tử, là quê hương gốc gác của các vị vua Trần? Nếu như vậy thì những ngôi mộ này chỉ còn là đống đất, là xác mộ?

h 5

 Nhân công cắt cỏ trên một phần mộ.

Nhà nghiên Đặng Hùng dẫn tư liệu Đại Việt sử ký toàn thư: “Tháng 6, rước thần tượng các lăng ở Quắc Hương (Nam Định), Thái Đường (Hưng Hà, Thái Bình), Long Hưng (Kiến Xương) đưa về lăng lớn ở Yên Sinh để tránh nạn người Chiêm Thành vào cướp”. Cuốn sử đáng tin nhất của nước Việt đã chép rằng, vua Trần chỉ rước thần tượng (có thể là tượng vua, voi đá, ngựa đá…), chứ đâu có phải chuyển lăng mộ, hài cốt?

Ngoài sử sách chép rõ, thì ông Hùng cũng từng điền dã rất nhiều lần về làng Tam Đường để tìm hiểu về các ngôi mộ. Theo lịch sử ghi chép trong làng, lưu giữ trong các chùa chiền, thì quân Nguyên Mông, Chiêm Thành, cho đến quân Minh, khi xâm lược nước ta, đều tiến hành đào bới Phần Bụt (mộ nghi của Trần Nhân Tông). Thế nhưng, lần nào quân giặc đào bới cũng bị sét đánh chết lính. Vì vậy, chúng không dám đào bới nữa.

Cách đây 30 năm, người dân trong làng Tam Đường ra mộ đào bới, lấy cát, sỏi, đá vụn về xây nhà, đổ mái bằng, làm lộ ra đường hầm và quách đá. Ngày đó, nhà nghiên cứu Đặng Hùng, với sự giúp sức của người dân, đã chui xuống hầm mộ. Ông Hùng quan sát được quách đá nguyên vẹn, đường hầm và có cả những súc gỗ lớn đóng cũi, giống với mộ cũi thời Bắc thuộc và thời Trần. Tuy nhiên, dưới hầm mộ nhiều rắn độc quá, nên ông phải chui lên. Năm 2000, người dân trong làng đã lấp hầm mộ lại, giữ nguyên hiện trạng đến bây giờ.

Rõ ràng, mộ các vị vua Trần ở Thái Bình còn khá nguyên vẹn, nên khó có thể nói đã di chuyển lăng mộ các vua Trần ở Thái Bình ra Quảng Ninh.

Thông tin chắc chắn nhất khẳng định mộ các vị vua Trần vẫn còn ở Thái Bình chính là cuộc khai quật gò mộ có tên Phần Cựu của Trần Thừa (Trần Thừa sinh năm 1184, mất 1234, là Thái thượng hoàng đầu tiên của nhà Trần, cha của vua Trần Thái Tông). Trong cuộc khai quật đó, Bảo tàng Thái Bình đã thu được khá nhiều đồ cổ, đặc biệt là những bình gốm chứa tro cốt, nghi là của chính Trần Thừa.

g 6

Gian thờ vua Trần Thái Tông ở đền Trần. 

Với những thông tin trên, nhà nghiên cứu Đặng Hùng bác bỏ tất cả các quan điểm của các nhà khoa học cho rằng nhà Trần đã di chuyển lăng mộ, gồm cả di cốt các vua Trần từ Thái Bình ra Quảng Ninh.

Việc lăng mộ các vị vua Trần còn ở Thái Bình hay đã được đưa ra Quảng Ninh, còn cần sự nghiên cứu của các nhà khoa học, lịch sử, nhưng có một điều chắc chắn, đó là, tại An Sinh (Quảng Ninh) có lăng mộ của 3 vị vua Trần, gồm Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Giản Định.

Cụ Hứa Văn Phán, người trông nom đền An Sinh, ngôi đền thờ 3 vị vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Giản Định, là người nắm khá rõ về 3 vị hoàng đế này.

Theo cụ Phán, các tài liệu ghi chép, hiện lưu giữ trong đền đều nói rằng, năm 1381, nhà Trần đã chuyển lăng mộ các vua từ Thái Bình, Nam Định về An Sinh. Sau khi chuyển lăng mộ 3 vị, gồm Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Giản Định từ Thái Bình lên, đã táng vào lăng Tư Phúc trên đỉnh núi, rồi cho xây điện An Sinh để thờ 3 vị vua này. Đời sau, điện An Sinh thờ cả 8 vị vua Trần an táng ở vùng Yên Sinh.

Video: Lăng mộ to như núi của các vua Trần ở Thái Bình

Từ lời cụ Phán, lần giở lại các tài liệu, tôi nhận thấy rất nhiều thứ bất nhất, khó hiểu. Theo nhà nghiên cứu Đặng Hùng, thì 3 phần mộ vua Trần ở làng Tam Đường là của Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Vậy tại sao, khi chuyển từ Thái Bình về An Sinh, lại là ông Trần Giản Định, chứ không phải Trần Nhân Tông? Ngoài ra, việc chuyển lăng mộ (hoặc thần tượng  - như khẳng định của nhà nghiên cứu Đặng Hùng), vào năm 1381, trong khi đó, Trần Giản Định, vị vua hậu nhà Trần, lại mất vào năm 1410. Chẳng lẽ, ông vua này lại có mộ và mộ của ông được chuyển khi ông còn sống?

Một tài liệu khác thì ghi chép rằng, năm 1381, nhà Trần chuyển lăng Trần Thái Tông từ Thái Bình và chuyển lăng Trần Thánh Tông từ Nam Định về Yên Sinh. Trần Giản Định được phụ táng vào lăng Tư Phúc sau này.

Ngoài ra, ở An Sinh cũng không có lăng mộ nào của vua Trần Nhân Tông. Hiện chỉ có tháp mộ cạnh am Ngọa Vân trong rừng già, sườn tây Yên Tử, được coi là lăng mộ của vua Trần Nhân Tông. Thông tin về việc di chuyển mộ các vị vua Trần từ Nam Định và Thái Bình ra An Sinh còn nhiều điều chưa sáng tỏ, cần sự tranh luận của các nhà khoa học, tác giả xin khoanh lại vấn đề này.

Trở lại câu chuyện về lăng mộ táng 3 vị vua Trần, gồm Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Giản Định. Theo các nhà sử học, sở dĩ, lăng mộ các vua Trần được chuyển từ Thái Bình về vùng đất này, ngoài việc tránh sự cướp bóc, phá hoại của quân Chiêm Thành, thì đây chính là vùng đất tổ tiên của các vị vua Trần.

Đại Nam nhất thống chí chép: “Bia thần đạo ở Yên Sinh nói rằng tiên tổ nhà Trần vốn người Yên Sinh, huyện Đông Triều, sau dời đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường (Mỹ Lộc, Nam Định), cho nên các vua Trần đều táng ở Yên Sinh, mà khi nhường ngôi xuất gia cũng lấy Yên Sinh làm nơi tu ẩn”.

c 7

 

Theo gia phả họ Trần, tổ tiên nhiều đời cư trú ở An Sinh, đàn ông làm nghề chài lưới, đàn bà trồng cấy, dệt vải. Trần Kinh khi đi đánh cá, buôn bán thủy, hải sản xa nhà, thấy vùng đất bồi ở lộ Thiên Trường màu mỡ, phì nhiêu đã dừng chân. Ông cho người đắp đê, cải tạo, biến vùng đất bồi thành ruộng vườn, đặt tên vùng đất là Tức Mặc, rồi phát tích đế vương.

Lúc ở ngôi, Trần Thái Tông đã ban cho Trần Liễu vùng An Sinh làm ấp thang mộc vào năm 1237. Đời Trần Dụ Tông vùng đất An Sinh được đặt tên là Đông Triều. Sách Đông Triều huyện chí viết: “Đông Triều có nhiều núi non, dân cư ruộng đất xen lẫn với núi rừng… Núi non chót vót, tạo lên thành lũy, trường giang uốn lượn tạo nên thắng địa. Đường thủy thông nhau, nối liền các trấn thành, sông Khu Cầu Tháp là nơi người vật hội tụ, cũng là nơi danh thắng của phía Đông vậy”.

Các đời vua Trần Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, khi còn ở ngôi báu cũng như khi đã rời ngai vàng làm Thái Thượng Hoàng đều rất quan tâm đến vùng đất này.

Năm 1320, Thượng Hoàng Trần Anh Tông mất, triều đình đã cho xây Thái Lăng ở Yên Sinh để đặt di hài của ngài, đồng thời cho xây dựng miếu để hằng năm về bái yết, tế lễ.

Về sau, các công trình như Mục lăng, Phụ Sơn lăng, Nguyên lăng, Đồng Hỷ lăng cũng được lần lượt dựng lên tại Yên Sinh. Năm 1381, để tránh nạn phá hoại của Chiêm Thành, nhà Trần tiếp tục chuyển các lăng ở Thái Bình, Nam Định về Yên Sinh. Sau khi chuyển về Yên Sinh, nhà Trần cho xây dựng tiếp hai khu lăng lớn là Tư Phúc lăng và Ngải Sơn lăng. Ngoài ra, nhà Trần dựng điện lớn là Điện An Sinh để thờ cúng các vị tiên đế.

Điện An Sinh đã trải qua nhiều lần sụp đổ, xây dựng, tôn tạo lại. Từ cả trăm năm trước, điện An Sinh đã là một phế tích. Năm 1997, nhờ công đức của khách thập phương, UBND huyện Đông Triều đã xây dựng lại điện và gọi là Đền An Sinh, thờ 8 vị vua Trần.

Lăng mộ các vua Trần tọa lạc trên vùng đất non bình thủy tụ, trên diện tích 15km2, kéo dài từ núi Đạm Thủy đến núi Ngọa Vân thuộc xã An Sinh. Quần thể lăng mộ và đền, miếu trong khu vực có giá trị đặc biệt quan trọng, nên từ năm 1962, Bộ Văn hóa đã xếp hạng khu di tích Đền thờ và lăng miếu các vua Trần là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia.

Phạm Dương Ngọc
Bình luận
vtcnews.vn