Trong những năm gần đây, tỉnh Vĩnh Long đã nỗ lực triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm giảm nghèo bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, nâng cao đời sống người dân và hướng tới mục tiêu phát triển bao trùm.
Với đặc thù là địa phương thuần nông, kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào sản xuất nông nghiệp và lao động thủ công, công tác giảm nghèo luôn được tỉnh xác định là nhiệm vụ trọng tâm, lâu dài và cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị.
Khảo sát, phân loại hộ nghèo
Ông Võ Tiến Sĩ - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Vĩnh Long - cho biết, việc giảm nghèo hiện nay có sự thay đổi do các xã cũ sáp nhập và cấp huyện không còn, dẫn đến một số nhiệm vụ chuyển sang Phòng Kinh tế.

Trong những năm gần đây, tỉnh Vĩnh Long đã nỗ lực triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm giảm nghèo bền vững.
Ngành nông nghiệp và môi trường đã tập huấn và hướng dẫn địa phương thực hiện rà soát, nhưng để đảm bảo chính xác và chặt chẽ, Ban Chỉ đạo tỉnh phối hợp các ngành trực tiếp xuống địa phương để thống nhất cách làm và số liệu, từ đó phục vụ cho việc hoạch định chính sách.
Mỗi đoàn có sự tham gia của đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, các sở, ngành, cùng các hội đoàn thể và Ngân hàng Chính sách xã hội. Chi cục Phát triển nông thôn và Quản lý chất lượng cũng tham gia xuyên suốt để kiểm tra hồ sơ, đối chiếu quy trình và hướng dẫn địa phương.
Qua thực tế khảo sát tại một số xã, đoàn ghi nhận nhiều phản ánh và đề xuất từ người dân, đồng thời kiểm tra hồ sơ ấp và số hộ nghèo do địa phương đề xuất. Kết quả cho thấy, hầu hết các địa phương thực hiện phù hợp hướng dẫn, phiếu đánh giá hộ nghèo cơ bản đúng chuẩn, tạo cơ sở hỗ trợ các hộ cải thiện cuộc sống.
Đoàn khảo sát yêu cầu địa phương phân loại các hộ nghèo: Bao nhiêu hộ có khả năng lao động để thoát nghèo, bao nhiêu hộ cần hỗ trợ an sinh xã hội, bao nhiêu hộ là người dân tộc thiểu số. Dựa trên phân loại này, các địa phương xây dựng kế hoạch sử dụng nguồn lực từ Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo, hỗ trợ xây dựng mô hình sinh kế, tạo thu nhập ổn định cho người dân.
Cũng theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Vĩnh Long, hiện tỉnh có 124 xã, phường (19 phường, 105 xã). Việc khảo sát được thực hiện đồng đều tại cả khu vực thành thị và nông thôn, đảm bảo số liệu phản ánh sát thực tế.
Trên cơ sở này, tỉnh có cơ sở khoa học để hoạch định chính sách hỗ trợ, xây dựng các giải pháp giảm nghèo bền vững và nâng cao đời sống toàn diện cho người dân. Đồng thời, ngành nông nghiệp và môi trường sẽ tham mưu, báo cáo UBND tỉnh, phục vụ mục tiêu giảm nghèo trong năm 2026.
Sau khi khảo sát, rà soát và điều tra hộ nghèo, Ban Chỉ đạo tỉnh sẽ cùng địa phương xem xét quy trình thực hiện, hướng dẫn hoàn thiện hồ sơ trước khi niêm yết và công bố số hộ nghèo.
Hướng tới mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo 0,5%
Năm 2025 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021 – 2025).
Vĩnh Long đặt ra mục tiêu tiếp tục thực hiện giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững; hạn chế tái nghèo, phát sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và hoàn thành các mục tiêu giảm nghèo của tỉnh.
Cụ thể, tỉnh đặt mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo 0,5% (trong đó, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc Khmer giảm 0,5%); phấn đấu giảm tỷ lệ hộ cận nghèo 0,5% theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia. Đồng thời, phấn đấu tăng từ 1% - 1,5% tỷ lệ hộ nghèo được tiếp cận, sử dụng các dịch vụ xã hội cơ bản phù hợp theo các tiêu chí đo lường nghèo đa chiều.

Vĩnh Long đặt mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bền vững.
Để đạt mục tiêu, tỉnh triển khai hàng loạt các dự án. Cụ thể, dự án 1: Hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội tại các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo, với 34 công trình giao thông, điện, thích ứng biến đổi khí hậu đối với vùng ngập mặn và vùng thường xuyên bị bão, lũ,… Các công trình phải đảm bảo tính kết nối giữa các ấp, giữa các ấp với trung tâm xã để hỗ trợ phát triển sản xuất, sinh kế và thích ứng với biến đổi khí hậu. Kinh phí hơn 63 tỷ đồng.
Dự án 2: Đa dạng hóa sinh kế, phát triển mô hình giảm nghèo, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh cho hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, người khuyết tật (không có sinh kế ổn định) với tổng vốn trên 54,6 tỷ đồng.
Dự án 3: Hỗ trợ phát triển sản xuất, cải thiện dinh dưỡng tập trung vào hai nội dung chính: hỗ trợ hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo phát triển sản xuất nông – lâm – ngư – diêm nghiệp thông qua tập huấn kỹ thuật, cung cấp giống cây trồng, vật nuôi, vật tư sản xuất và kết nối tiêu thụ sản phẩm (kinh phí gần 28 tỷ đồng). Đồng thời triển khai các hoạt động cải thiện dinh dưỡng cho trẻ em dưới 16 tuổi thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, phụ nữ mang thai… như phòng chống suy dinh dưỡng, nâng cao chất lượng bữa ăn học đường, truyền thông kiến thức dinh dưỡng (kinh phí hơn 13,5 tỷ đồng).
Dự án 4: Phát triển giáo dục nghề nghiệp, việc làm bền vững, gồm đào tạo nghề cho người nghèo, hỗ trợ lao động đi làm việc ở nước ngoài và tạo việc làm bền vững qua sàn giao dịch việc làm, kết nối cung cầu lao động... Kinh phí hơn 32 tỷ đồng.
Dự án 6: Truyền thông và giảm nghèo về thông tin, với hai tiểu dự án tập trung vào sản xuất sản phẩm truyền thông, nâng cao năng lực tuyên truyền, tổ chức sự kiện, đối thoại chính sách và phong trào thi đua “Cả nước chung tay vì người nghèo”. Kinh phí hơn 8,4 tỷ đồng.
Dự án 7: Nâng cao năng lực và giám sát, đánh giá Chương trình, gồm tập huấn cán bộ, học tập kinh nghiệm, hội thảo, xây dựng cơ sở dữ liệu, giám sát thực hiện, với tổng vốn hơn 18 tỷ đồng.
Để triển khai hiệu quả, tỉnh đề ra nhiều giải pháp như: Huy động đa dạng nguồn lực xã hội, bố trí vốn đối ứng hợp lý; lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia và chính sách giảm nghèo đặc thù. Tổ chức thực hiện công khai, minh bạch, tránh chồng chéo, dàn trải...






Bình luận