Trong danh sách 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo và lục súc, trâu đều đứng vị trí thứ 2, với các tên gọi lần lượt là: Sửu; Kim Ngưu, Ngưu. Hình ảnh con Trâu kéo cày trên ruộng đồng trồng lúa, hay con trâu đứng nằm gặm nhai cỏ trên bãi cỏ, cùng đầm mình trong vũng ao hồ nước là hình ảnh quen thuộc, gợi lên cảm giác thi vị thanh bình ở các miền quê Việt Nam.
Vì sao có lễ Mang thần và trâu đất?
Tiến sĩ Phan Thanh Hải – Giám đốc Sở Văn hoá Thể thao tỉnh Thừa Thiên – Huế (nguyên Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế) cho biết, nghi lễ đầu tiên vua quan nhà Nguyễn tổ chức trước Tết là lễ Ban sóc hay còn được hiểu là Lễ Ban lịch năm mới. Nghi lễ này được tổ chức vào ngày mùng 1/12 âm lịch hàng năm. Vào ngày này, Khâm Thiên Giám đặt triều nghi và dâng lịch của năm sau đã được soạn xong.
Sau đó, Nội Các tuyên chỉ của nhà vua ban lịch cho bách quan và các địa phương. Các quan làm Lễ Tạ ơn rồi về nhận lịch tại viện Đãi Lậu. Các địa phương thì đến nhận lịch tại hành cung của tỉnh.
Sau Lễ Ban sóc là Lễ Tiến xuân và cũng là nghi lễ quan trọng được tổ chức vào tiết Lập xuân. Hàng năm, sau ngày Đông chí, gặp ngày Thìn, hai cơ quan là Khâm Thiên giám và Võ khố sẽ lấy nước và đất ở phương thần Tuế đất, làm ra 3 con trâu đất và 3 vị Mang thần (thần chăn trâu với hình tượng đứa bé).
Sách khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ ghi lại một cách cụ thể rằng: "Mang thần và trâu đất là lễ đời cổ để khuyên cày, lại là việc đầu xuân, có quan hệ đến gốc lớn của sinh dân... nguyên là ý chăm việc làm ruộng, khuyên bảo, giúp đỡ, ở Kinh thành đã cử hành trước thì các địa phương cũng nên tuân làm tất cả...".
Để chuẩn bị cho lễ tế trâu đất và Mang thần, triều đình nhà Nguyễn giao trách nhiệm cho Khâm Thiên Giám và ty Vũ Khố hàng năm đến ngày Thìn sau ngày đông chí tổ chức cho hàng thợ thầy đến lấy đất và nước ở Phương thần Tuế đức về làm 3 con trâu đất và 3 vị Mang thần, dùng cây dâu, cây giá để làm thai cốt. Quan viên các địa phương phải đốc thúc ty Chiêm hậu mang thợ đến Phương thần Tuế đức lấy đất và nước về làm 1 con trâu đất và 1 vị Mang thần.
Một nhà nghiên cứu văn hoá Huế giải thích, Mang thần còn gọi là thần trăn châu, người đời Phục Hy. Hằng năm, triều đình nhà Nguyễn và nhân dân có tục rước thần chăn trâu tượng trưng bằng đứa trẻ chăn trâu đứng cạnh con trâu.
Năm nào được mùa thì đứa trẻ đi bằng cả hai chiếc giày, năm nào mất mùa thì chỉ đi một chiếc giày. Các triều vua Nguyễn đều tổ chức tế và rước con trâu và Mang thần bằng đất. Tuy nhiên, từ triều vua Khải Định trở về sau con trâu và đứa trẻ chỉ vẽ vào vải để tế và rước.
Theo quy định của triều Nguyễn, trâu đất có mình cao 4 thước nhà Chu (bằng 1 thước 9 tấc 2 phân) để tượng trưng cho 4 mùa, chiều dài từ đầu đến đuôi trâu là 8 thước nhà Chu để tượng trưng cho 8 tiết.
Đuôi trâu dài 1 thước 2 tấc để tượng trưng 12 tháng, đuôi phẩy về bên tả hay hữu căn cứ vào năm âm hoặc năm dương. Nếu năm đó nhằm năm dương thì đuôi trâu phẩy về bên tả và ngược lại. Năm dương thì miệng trâu há và ngược lại...
Mang thần cao 3 thước 6 tấc 5 phân để tượng trưng cho 365 ngày trong một năm. Nét mặt của thần được tô điểm để biểu hiện vẻ trai trẻ theo các năm: tý, ngọ, mão, dậu; già theo các năm: dần, thân, tỵ, hợi và trẻ con: thìn, tuất, sửu, mùi...
Các triều vua nhà Nguyễn từ Duy Tân trở về trước (11 đời) đều tổ chức tế, rước trâu và Mang thần bằng đất. Từ triều vua Khải Định đến vua Bảo Đại, con trâu và Mang thần chỉ vẽ vào vải.
Cầu Kỳ
Những nhà nghiên cứu văn hoá Huế cho hay, các tài liệu cổ ghi chép lại rằng, sau khi làm xong trâu đất và Mang thần, Khâm Thiên Giám có nhiệm vụ xem xét ngày giờ rồi họp bàn cùng bộ Lễ chọn ngày giờ tổ chức lễ tế. Theo quy định của triều đình, cần phải chọn giờ Thìn của ngày Lập xuân, nếu giờ Thìn Lập xuân vào lúc đêm tối thì chọn giờ Thìn sau khi trời sáng rõ mới làm lễ.
Triều đình nhà Nguyễn quy định rằng, đối với phủ Thừa Thiên, trước Lập xuân 2 ngày, các quan viên phải lựa chọn mảnh đất sạch sẽ, ngoài cửa chính đông của Kinh thành để đặt đàn tế. Các binh dịch thuộc phủ có trách nhiệm đến ty Vũ Khố nhận lĩnh các án màu đỏ mang về phủ thự để chuẩn bị thiết trí trâu đất và Mang thần trong ngày tế.
Sáng sớm trước lập xuân một ngày, phủ Thừa Thiên tổ chức làm lễ tế trâu đất và Mang thần, những người phụ trách coi việc bày đặt các hương án, nến đèn, lễ phẩm... Đến giờ lành, các viên Đề đốc, phủ Doãn, phủ Thừa... đốc suất thuộc viên mặc áo quần theo nghi thức tế giao cùng với nghi trượng, tàn, lọng, nhã nhạc đến làm lễ tại các án thờ trâu đất và Mang thần.
Sau khi làm xong lễ tế, lễ rước các án thờ trâu đất và Mang thần về đặt tại nhà bộ Lễ 2 án, phủ thự Thừa Thiên 1 án. Các án thờ được canh giữ cẩn thận đợi đến hôm sau làm lễ chính thức.
Từ tờ mờ sáng ngày Lập xuân, phủ Thừa Thiên và các địa phương cùng tổ chức làm lễ chính. Bộ Lễ hội đồng với phủ Thừa Thiên và các quan viên ở Khâm Thiên Giám đều mặc triều phục đến làm lễ tại các án thờ trâu đất và Mang thần ở nhà bộ Lễ. Lễ tế được tổ chức long trọng theo nghi lễ cung đình. Sau khi làm lễ xong, viên phủ Doãn Thừa Thiên về phủ thự, mang trâu đất và Mang thần ra đánh 3 roi để tỏ ý khuyên cày.
Đối với các địa phương tổ chức tế và rước vào ngày lập xuân. Công việc chuẩn bị phải bắt đầu từ hôm trước, đàn tế được đặt ở hướng đông ngoài thành quách các tỉnh sở tại. Quan địa phương có nhiệm vụ đốc suất thuộc viên chuẩn bị đồ lễ chu tất, đợi đến giờ lành tất cả các quan viên đội mũ, mặc áo thường triều cùng nghi trượng, tàn lọng, nhã nhạc... đến làm lễ tế. Sau khi hoàn tất lễ tế, các án thờ trâu đất và Mang thần được rước về phủ. Quan địa phương ấy lấy roi đánh 3 roi rồi kính đặt trâu đất và Mang thần trong công sảnh.
Sau ngày tế trâu đất và Mang thần hằng năm, phủ Thừa Thiên mang trâu đất và Mang thần lần trước giao cho ty Vũ khố lưu giữ. Riêng các địa phương thì chọn mảnh đất sạch để chôn cất. Tuy nhiên, từ năm Minh Mạng thứ 11 triều đình ra lệnh cho phủ Thừa Thiên cùng bàn bạc với bộ Lễ và ty Vũ Khố lựa chọn chỗ đất sạch để chôn cất trâu đất và Mang thần của năm trước nhằm giảm tải kho lưu giữ ở Vũ Khố.
Hình ảnh con trâu không chỉ xuất hiện trong “lễ Mang thần và trâu đất” mà con vật đứng thứ 2 trong 12 con giáp này còn là phẩm vật không thể thiếu trong 2 nghi lễ quan trọng nhất của triều đình nhà Nguyễn xưa đó là Lễ tế Giao và Lễ tế Xã Tắc.
Theo đó trâu cùng với dê và lợn tạo thành Tam sanh – phẩm vật chính của lễ tế và ngày nay, sau khi 2 lễ tế nói trên được phục dựng thì Tam sanh vẫn xuất hiện trong phẩm vật phục vụ lễ tế.
Hoàng gia nhà Nguyễn ăn Tết thế nào?
Tiến sĩ Phan Thanh Hải – Giám đốc Sở Văn hoá Thể thao tỉnh Thừa Thiên – Huế, nghi lễ quan trọng nhất trong dịp Tết ở chốn cung đình đó chính là lễ mừng Tết nhà vua và các thành viên trong hoàng gia. Lễ mừng nhà vua được tổ chức như một lễ đại triều, có sự tham dự của bách quan văn võ và bô lão đại diện của địa phương.
Sáng mồng 1, tất cả những ai tham dự đều phải mặc lễ phục. Thân công đứng hai hàng bên trong điện Thái Hòa, quan văn võ từ tam phẩm trở lên đứng hai hàng trên tầng sân rồng thứ nhất theo phẩm sơn (tả văn, hữu võ); tầng sân dưới thì dành cho các bô lão, ngoài nữa là binh lính, voi ngựa.
Ngoài lễ mừng Tết vua còn có lễ mừng Tết Thái hậu, lễ mừng Tết Hoàng Thái phi, lễ mừng Hoàng thái tử. Riêng lễ mừng Tết Hoàng Thái hậu, do các vua Nguyễn đều đề cao chữ hiếu nên trong ngày Tết nghi lễ này được thực hiện rất trang trọng tại cung Diên Thọ - nơi Thái hậu ở, sinh hoạt.
Sau các lễ mừng của ngày mồng 1, ngày mồng 2, nhà vua cùng thân công vào bái lạy tại điện Phụng Tiên - nơi thờ tất cả các vua Nguyễn đời trước.
Ngày mồng 3 thì vua và bách quan đều đi thăm thầy dạy, sư trưởng của mình; ngày mồng 5 đi du xuân, thăm viếng lăng tẩm, chùa đền bên ngoài Kinh thành; ngày mồng 7 làm lễ Khai hạ (hạ nêu), ngày này các viên quan giữ ấn tín làm lễ Khai ấn, mở hòm ấn tượng trưng năm làm việc mới bắt đầu.
Ngoài những nghi lễ nói trên, ngày Tết trong Hoàng cung còn nhiều nghi lễ khác như lễ tế hưởng ở các miếu được thực hiện trang trọng khi vua làm chủ lễ tế ở Thái Miếu hoặc Thế Miếu; các công thần tế lễ ở các miếu còn lại. Lễ tế cờ, tức tổ chức lễ xuất quân đầu năm có bắn 3 tiếng súng to. Người ta cho rằng tiếng súng thần công bắn vào dịp tế thần Đạo kỳ có nghĩa đuổi tà ma, ác quỷ.
Bình luận