Ngày nay, phần lớn các quốc gia trên thế giới đón năm mới vào ngày 1/1 Dương lịch. Tuy nhiên, không nhiều người biết rõ về lịch sử của ngày Tết Dương lịch.
Tết Dương lịch bắt nguồn từ khi nào?
Theo các sử liệu, lịch sử của ngày Tết Dương lịch bắt nguồn từ hệ thống lịch của người La Mã cổ đại. Lịch La Mã được Romulus (người sáng lập thành Roma, khoảng 753 TCN) tạo ra dựa trên hệ thống âm lịch do người Hy Lạp sử dụng. Lịch này được gọi là lịch Romulus, bao gồm 10 tháng, bắt đầu từ ngày chứa điểm Xuân phân (vernal equinox - khoảng ngày 21/3 Dương lịch hiện nay).
Vị vua thứ hai của La Mã là Numa Pompillus (715 - 673 TCN) đã cải tiến lịch Romulus thành lịch Numa gồm 12 tháng. Một năm bình thường của lịch Numacó 355 ngày và vào năm có tháng mens intercalaris (tháng nhuận) thì có 385 ngày.
Vào thời kỳ Cộng hoà La Mã (khoảng 450 TCN), lịch Numa được sửa đổi thành lịch Cộng hoà La Mã. Theo lịch này, hai năm có tháng Mercedonius sẽ có gồm 377 và 378 ngày, hai năm còn lại có 355 ngày. Tuy đã chính xác hơn so với các lịch trước, nhưng lịch Cộng hoà La Mã vẫn còn rất phức tạp, thường bị tính sai vì nhiều lý do khác nhau.
Dựa trên bộ lịch này, La Mã là quốc gia đầu tiên chọn ngày 1/1 làm ngày khởi đầu năm mới từ năm 153 TCN. Tuy nhiên, điều này ít được tôn trọng do tập quán văn hóa, chính trị ở các vùng khác nhau của La Mã.
Đến thời đại của hoàng đế Julius Caesar (100 - 44 TCN) thì hệ thống lịch này đã được cải tiến một cách căn bản thành lịch Julius, đặt nền móng cho Dương lịch ngày nay. Bộ lịch mới của Julius Caesar được áp dụng khá đồng bộ trên toàn đế quốc La Mã, vẫn giữ ngày 1/1 là ngày đầu năm. Để tưởng nhớ tới ông, Thượng nghị viện đã dùng tháng sinh nhật của ông (tháng 7) đổi tên thành tháng July từ tên cũ là tháng Quintilis.
Đến đời cháu của vua Caesar là Hoàng đế Augustus cũng có một tưởng thưởng danh dự tương tự. Theo đó, tên tháng 8 được đổi từ tháng Sextilis thành tháng August, vì ông có công sửa sai trong sự tính toán của năm nhuận.
Lịch Julius không có những sửa đổi quan trọng nào cho đến năm 1582 khi Giáo hoàng Gregory XII nhậm chức, ông đã hợp nhất phương pháp tính Lịch hiện đại để phân chia tháng năm. Giáo hoàng sửa đổi và xác nhận ngày của năm mới là ngày 1/1 bất chấp mọi chống đối của các hiệp hội tín đồ Cơ đốc giáo.
Những quốc gia Công giáo tiếp nhận ngày Năm mới sớm nhất, sau đó đến các nước theo đạo Tin lành. Nước Đức chấp nhận ngày năm mới từ năm 1700, sau đó là Anh năm 1752 và Thụy Điển năm 1753.
Những nước phương Đông ảnh hưởng của nhiều tôn giáo như Hindus, đạo Lão, Phật giáo, Hồi giáo nhưng cũng lần lượt dùng lịch giống Cơ đốc giáo. Nhật Bản chấp nhận ngày năm mới Dương lịch vào năm 1873 và Trung Quốc năm 1912.
Những giáo hội dòng chính thống giáo phương Đông đón nhận ngày Tết Dương lịch muộn hơn, khảng thập kỷ 1920. Nước Nga chấp nhận ngày này trong hai lần, lần đầu tiên năm 1918 và lần thứ hai năm 1924.
Tại Việt Nam, Tết Dương lịch được áp dụng từ thời Pháp thuộc, khi lịch Tây bắt đầu được sử dụng thay Âm lịch truyền thống. Các công sở lúc đó được nghỉ những ngày này để tổ chức lễ hội đón năm mới. Ngày nay, Tết Dương lịch đã được Việt hóa và trở thành một ngày lễ truyền thống của toàn dân...
Các dân tộc đón Tết Dương lịch thế nào?
Vào ngày 1/1, trẻ em Scotland thường dậy sớm, ghé thăm hàng xóm và hát vang những bài ca truyền thống để được tặng tiền xu, bánh, táo… Người Hungary trong ngày này thường gây tiếng ồn để xua đuổi ma quỷ. Họ kiêng giặt quần áo để tránh xui xẻo. Người dân Mexico thì có tục đánh nhau để xóa bỏ hiềm khích trong năm cũ.
Đêm giao thừa, người Czech quầy quần bên bàn ăn gia đình, trên đó có một quả táo được cắt làm đôi. Họ quan sát lõi táo, nếu thấy hình ngôi sao nghĩa là những người có mặt đều may mắn, khỏe mạnh. Còn người Tây Ban Nha uống rượu chúc mừng nhau và ăn nho xanh thật nhanh. Sẽ có 12 chùm nho tượng trưng cho 12 tháng trong năm mới, họ ăn nho với mong ước có một năm suôn sẻ, ngọt ngào và đặc biệt ăn nho xanh, càng nhanh càng gặp nhiều may mắn.
Bình luận