Đây là loại máy bay có tốc độ nhanh nhất của Không quân Mỹ vào thời kỳ đó và cho tận đến bây giờ: tốc độ tối đa 3.717 km/h (tức là 1.032 m/s), trần bay 30.500 m (trung bình 24.000 m), tầm bay 4.800 km.
Máy bay có 2 động cơ phản lực J58 với sức đẩy cực lớn 14.740 kg mỗi chiếc (gần gấp đôi sức đẩy động cơ của F-4 là 8.120 kg). Thời gian bay qua vùng trời Bắc Việ Nam chỉ hết 8-12 phút. Mỹ đã sản xuất tất cả 32 chiếc loại này. Trong quá trình sử dụng bị trục trặc kỹ thuật rơi 12 chiếc.
Đưa vào sử dụng từ 1964, trong 25 năm hoạt động, SR-71 đã thực hiện 3.551 phi vụ qua vùng trời Việt Nam, Cuba, Triều Tiên, khu vực biên giới Liên Xô…và đã bị khoảng 100 quả tên lửa phòng không các loại công kích nhưng hầu hết đều nổ… phía sau máy bay.
Máy bay duy nhất thoát hỏi lưới lửa
Trở lại chiến trường Việt Nam những năm 1960-1970, từ 1967, Không quân Mỹ quyết định sử dụng SR-71 ở Việt Nam do các loại máy bay trinh sát khác bị tổn thất nhiều và không đấp ứng đủ nhu cầu tình báo.
Ngày 31/7/1967 đánh dấu lần đầu tiên SR-71 trinh sát Hà Nội và sau đó thường xuyên bay qua vùng trời miền Bắc. Ngày 17/9/1967, lần đầu tiên kíp trắc thủ rađa P-35 và đài đo cao PRV-11 của đại đội 45 ở trận địa An Khánh đã phát hiện được SR-71 xâm nhập. Đây là chiến công của bộ đội radar góp phần quan trọng cho việc đối phó có hiệu quả và hạn chế tác dụng của SR-71.
Trong hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam (1965-1973), quân và dân ta đã bắn rơi hàng ngàn máy bay phản lực gồm 40 kiểu loại, duy nhất chỉ có 1 loại không bị bắn rơi trong cuộc chiến: đó là SR-71.
Sau này, ta không chủ trương đánh loại máy bay trinh sát này nữa cho khỏi tốn đạn mà tập trung đối phó với các loại chiến đấu cơ khác sẽ xuất hiện sau khi SR-71 bay qua.
Kẻ chỉ điểm
Tuy nhiên, chính đường bay của SR-71 mà ta theo dõi được đã “tố cáo” hướng tấn công và khu vực sẽ đánh phá của các loại máy bay cường kích và ném bom. Cùng với các nguồn tin tình báo khác, bộ đội ta đã mưu trí điều chỉnh đội hình chiến đấu và tăng cường lực lượng khi cần thiết ở những khu vực trọng điểm để kịp thời giáng trả đòn tập kích của địch.
Đầu tháng 10/1967 ta đã phát hiện 27 lần tốp máy bay trinh sát SR-71 cùng các “đàn em” khác như RF-4, RF-101, 147-J bay qua Hà Nội và đặc biệt lưu ý tới đường bay của 10 lần qua cầu Long Biên, 4 lần qua sân bay Nội Bài và 3 lần qua cầu Đuống.
Phán đoán được ý đồ đánh lớn của Không quân Mỹ qua hiện tượng này, ta đã nhanh chóng tăng cường lực lượng bảo vệ Hà Nội với 8 trung đoàn cao xạ (riêng pháo cao xạ 57mm bảo vệ cầu Long Biên được tăng từ 11 lên 17 đại đội…), 22 tiểu đoàn tên lửa và 3 trung đoàn không quân tiêm kích cùng hàng trăm đơn vị dân quân, tự vệ bắn máy bay bằng súng bộ binh.
“Giờ G”, Mỹ tập trung gần 500 máy bay chiến thuật từ căn cứ ở Thái lan và 3 tàu sân bay, từ ngày 24 đến 28/10/1967 liên tục đánh phá các mục tiêu ở Hà Nội với 1.230 phi vụ. Đây là đợt huy động lớn nhất không quân chiến thuật của Mỹ trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất ở miền Bắc. Kết quả, số máy bay bị bắn rơi cũng nhiều nhất: 45 chiếc trong 5 ngày với hàng chục phi công bị chết và bị bắt.
Kết thúc cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965-1968) chỉ riêng bộ đội cao xạ, tên lửa và không quân tiêm kích của Quân chủng Phòng không – Không quân đã bắn rơi 1.331 máy bay chiến đấu phản lực các loại (chưa kể thành tích của lực lượng phòng không địa phương và dân quân, tự vệ)…
Như vậy, SR-71 “bay nhanh nhất thế giới” cũng không giúp ích gì hơn được cho Không quân Mỹ để tránh những thiệt hại nặng nề mà họ phải gánh chịu khi mang bom đạn bay vào bầu trời Việt Nam.
Đại tá Kỹ sư Nguyễn Thụy Anh (Báo ĐVO)
Bình luận