Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước chuyển biến quyết định của cách mạng Việt Nam. Đó là kết quả của sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức; là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta.
Sự kiện đó được ghi nhận như một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta. Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm nay đã được giải quyết. Từ đây, cách mạng Việt Nam bước vào quỹ đạo mới của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên lập trường của giai cấp công nhân.
Với đường lối cách mạng cứu nước đúng đắn, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, Đảng ta đã quy tụ, đoàn kết xung quanh mình tất cả các giai tầng yêu nước trong xã hội, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp đấu tranh chống thực dân Pháp và phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc.
Trong 15 năm lãnh đạo cách mạng, qua các cuộc đấu tranh đầy gian khổ hy sinh, Đảng ta từng bước vận động, giáo dục quần chúng, trải qua ba cao trào cách mạng lớn (1930-1931, 1936-1939, 1939-1945) như ba cuộc tổng diễn tập, với khí thế cách mạng vĩ đại của quần chúng, nắm chắc thời cơ lịch sử, với một nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Nhà nước của dân, do dân và vì dân - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Từ đây, dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập tự do, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ngay khi vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã phải đối mặt với ba thứ giặc: Giặc đói; giặc dốt và giặc ngoại xâm. Trong khi đó, lực lượng mọi mặt của Nhà nước ta còn rất non yếu. Vận mệnh của đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”.
Song, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra những chủ trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng để ổn định đời sống của nhân dân, giữ vững chính quyền cách mạng. Với đường lối chính trị sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng ta đã động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy hiểm để củng cố, giữ vững chính quyền, đưa cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến.
Bất chấp nguyện vọng hòa bình của nhân dân ta, thực dân Pháp vẫn không từ bỏ dã tâm cướp nước ta lần nữa. Lịch sử đã đặt dân tộc ta trước một thử thách mới, phải đứng lên bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước quyết tâm “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới với đặc điểm là đất nước tạm cắt chia làm hai miền. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân cả nước ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Trải qua 21 năm chiến đấu kiên cường, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, được sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, đã lần lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ.
Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”1, mở ra thời kỳ mới: Cả nước độc lập thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bước vào thời kỳ phát triển mới, cách mạng Việt Nam có những thuận lợi song, cũng không ít khó khăn, mà khó khăn lớn nhất là nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, hậu quả chiến tranh để lại nặng nề…. Quá trình đó đã tác động, ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam đã vượt qua những khó khăn trở ngại, thu được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, những thành tựu về kinh tế – xã hội còn thấp so với yêu cầu và công sức bỏ ra.
Nền kinh tế có mặt mất cân đối nghiêm trọng, cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội ngày càng gay gắt. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng, khẳng định những mặt làm được, phân tích rõ những sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo kinh tế, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Sau hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, dân tộc ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Ðất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong bối cảnh quốc tế và trong nước vừa có thuận lợi, thời cơ, vừa có khó khăn, thách thức, trong tình hình ấy, nếu Đảng ta không thật vững vàng, không thống nhất cao về ý chí, hành động, không trong sạch về đạo đức, lối sống; không chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ, thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đưa đất nước.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI), Đảng ta đã quyết định phải tiếp tục tiến hành củng cố xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần tích cực và kiên quyết, mạnh mẽ hơn, nhằm tạo ra một bước chuyển biến mới trên các mặt, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, củng cố sự kiên định về mục tiêu, lý tưởng cách mạng; tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động; củng cố tổ chức chặt chẽ, tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, coi đây là vấn đề sống còn của Đảng, của chế độ ta.
Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rằng, đây là công việc không đơn giản, dễ dàng; trái lại vô cùng khó khăn, phức tạp, thậm chí có thể nói đó là một cuộc đấu tranh gay go, gian khổ và quyết liệt, đòi hỏi toàn Đảng và cả hệ thống chính trị phải có nỗ lực cao với một quyết tâm rất lớn, phấn đấu bền bỉ, kiên trì với những biện pháp thật kiên quyết, tích cực như Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng đã đề ra.
Chúng ta có đủ cơ sở để tin rằng, với quyết tâm chính trị rất cao của một Đảng cách mạng chân chính, hết lòng vì nước, vì dân , lại được sự đồng tình ủng hộ của toàn dân tộc, với những chủ trương và giải pháp đúng đắn để củng cố xây dựng, chỉnh đốn Đảng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng sẽ được nâng lên tầm cao mới, đáp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam trong hơn 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, không phải lúc nào cũng thuận lợi mà có lúc cũng đã trải qua những năm tháng khó khăn, thách thức nghiêm trọng. Chính trong những năm tháng có tính chất bước ngoặt đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện rất rõ bản lĩnh chính trị của một Đảng cách mạng, luôn kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng, với tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo, đã vượt qua được những thời kỳ cực kỳ khó khăn, gian khổ, giành những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Với những gì đã làm được, chúng ta mãi mãi có quyền tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh – Đảng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu.
TheoTS. Vũ Ngọc Am / ĐCSVN
Sự kiện đó được ghi nhận như một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta. Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm nay đã được giải quyết. Từ đây, cách mạng Việt Nam bước vào quỹ đạo mới của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên lập trường của giai cấp công nhân.
Với đường lối cách mạng cứu nước đúng đắn, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, Đảng ta đã quy tụ, đoàn kết xung quanh mình tất cả các giai tầng yêu nước trong xã hội, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp đấu tranh chống thực dân Pháp và phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc.
Một tiết mục trong chương trình nghệ thuật với chủ đề “Mừng Đảng, mừng Xuân" |
Trong 15 năm lãnh đạo cách mạng, qua các cuộc đấu tranh đầy gian khổ hy sinh, Đảng ta từng bước vận động, giáo dục quần chúng, trải qua ba cao trào cách mạng lớn (1930-1931, 1936-1939, 1939-1945) như ba cuộc tổng diễn tập, với khí thế cách mạng vĩ đại của quần chúng, nắm chắc thời cơ lịch sử, với một nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Nhà nước của dân, do dân và vì dân - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Từ đây, dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập tự do, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ngay khi vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã phải đối mặt với ba thứ giặc: Giặc đói; giặc dốt và giặc ngoại xâm. Trong khi đó, lực lượng mọi mặt của Nhà nước ta còn rất non yếu. Vận mệnh của đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”.
Song, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra những chủ trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng để ổn định đời sống của nhân dân, giữ vững chính quyền cách mạng. Với đường lối chính trị sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng ta đã động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy hiểm để củng cố, giữ vững chính quyền, đưa cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến.
Bất chấp nguyện vọng hòa bình của nhân dân ta, thực dân Pháp vẫn không từ bỏ dã tâm cướp nước ta lần nữa. Lịch sử đã đặt dân tộc ta trước một thử thách mới, phải đứng lên bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước quyết tâm “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”1, mở ra thời kỳ mới: Cả nước độc lập thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bước vào thời kỳ phát triển mới, cách mạng Việt Nam có những thuận lợi song, cũng không ít khó khăn, mà khó khăn lớn nhất là nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, hậu quả chiến tranh để lại nặng nề…. Quá trình đó đã tác động, ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam đã vượt qua những khó khăn trở ngại, thu được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, những thành tựu về kinh tế – xã hội còn thấp so với yêu cầu và công sức bỏ ra.
Nền kinh tế có mặt mất cân đối nghiêm trọng, cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội ngày càng gay gắt. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng, khẳng định những mặt làm được, phân tích rõ những sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo kinh tế, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Sau hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, dân tộc ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Ðất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong bối cảnh quốc tế và trong nước vừa có thuận lợi, thời cơ, vừa có khó khăn, thách thức, trong tình hình ấy, nếu Đảng ta không thật vững vàng, không thống nhất cao về ý chí, hành động, không trong sạch về đạo đức, lối sống; không chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ, thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đưa đất nước.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI), Đảng ta đã quyết định phải tiếp tục tiến hành củng cố xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần tích cực và kiên quyết, mạnh mẽ hơn, nhằm tạo ra một bước chuyển biến mới trên các mặt, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, củng cố sự kiên định về mục tiêu, lý tưởng cách mạng; tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động; củng cố tổ chức chặt chẽ, tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, coi đây là vấn đề sống còn của Đảng, của chế độ ta.
Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rằng, đây là công việc không đơn giản, dễ dàng; trái lại vô cùng khó khăn, phức tạp, thậm chí có thể nói đó là một cuộc đấu tranh gay go, gian khổ và quyết liệt, đòi hỏi toàn Đảng và cả hệ thống chính trị phải có nỗ lực cao với một quyết tâm rất lớn, phấn đấu bền bỉ, kiên trì với những biện pháp thật kiên quyết, tích cực như Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng đã đề ra.
Chúng ta có đủ cơ sở để tin rằng, với quyết tâm chính trị rất cao của một Đảng cách mạng chân chính, hết lòng vì nước, vì dân , lại được sự đồng tình ủng hộ của toàn dân tộc, với những chủ trương và giải pháp đúng đắn để củng cố xây dựng, chỉnh đốn Đảng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng sẽ được nâng lên tầm cao mới, đáp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam trong hơn 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, không phải lúc nào cũng thuận lợi mà có lúc cũng đã trải qua những năm tháng khó khăn, thách thức nghiêm trọng. Chính trong những năm tháng có tính chất bước ngoặt đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện rất rõ bản lĩnh chính trị của một Đảng cách mạng, luôn kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng, với tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo, đã vượt qua được những thời kỳ cực kỳ khó khăn, gian khổ, giành những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Với những gì đã làm được, chúng ta mãi mãi có quyền tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh – Đảng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu.
TheoTS. Vũ Ngọc Am / ĐCSVN
Bình luận