• Zalo

Lo ngại gia tăng tiến sĩ ‘dởm’ khi hạ chuẩn đào tạo

Diễn đànThứ Sáu, 16/07/2021 07:15:00 +07:00Google News
(VTC News) -

Việc nới lỏng, "hạ chuẩn" trong đào tạo tiến sĩ sẽ góp phần gia tăng số lượng tiến sĩ mỗi năm nhưng về chất lượng thì khó có thể tăng lên.

Quy chế mới về đào đạo tiến sĩ vừa được Bộ GD&ĐT ban hành với nhiều điểm khác so với quy chế đào tạo tiến sĩ năm 2017.

Tăng số lượng hay chất lượng?

Thứ nhất, quy chế mới nới lỏng yêu cầu kết quả công bố trong luận án trước khi bảo vệ. Theo đó, nghiên cứu sinh chỉ cần công bố công trình trên những tạp chí trong nước và được tính điểm là có thể bảo vệ luân án tiến sĩ. Trong khi đó, quy chế năm 2017 thì bắt buộc nghiên cứu sinh phải có công bố trên các tạp chí/hội thảo nước ngoài, trong đó có tạp chí ISI/Scopus.

Lo ngại gia tăng tiến sĩ ‘dởm’ khi hạ chuẩn đào tạo - 1

Lo ngại gia tăng tiến sĩ ‘dởm’ do hạ chuẩn đào tạo.

Như vậy, quy chế mới giúp cho việc hoàn thành luận án được thuận lợi hơn và tốc độ đào tạo tiến sĩ của Việt Nam có thể sẽ nhanh hơn trong thời gian tới.

Về “tạp chí nước ngoài” hay “tạp chí trong nước”, hiện Việt Nam đã có những tạp chí xuất bản bằng tiếng Anh, được thế giới công nhận và liệt kê vào các cơ sở dữ liệu ISI/Scopus. Những tạp chí này ra đời ở trong nước, nhưng bản chất thì đây được coi là tạp chí quốc tế.

Bởi, tạp chí quốc tế gồm các tạp chí nước ngoài có uy tín, được liệt kê danh sách ISI/Scopus hay được xuất bản bởi những tổ chức uy tín. Trong đó, Việt Nam cũng có một số tạp chí đã đạt chuẩn này, nên có thể gọi đó là tạp chí quốc tế. Còn tạp chí trong nước (hay tạp chí quốc gia, được tính điểm) gồm các tạp chí xuất bản bằng tiếng Việt. Do đó, khó có thể nói, quy chế mới giúp nâng cao chấp lượng của các luận án tiến sĩ.

Thứ hai, yêu cầu về chuẩn tiếng Anh, quy chế mới nới lỏng hơn bằng việc chấp nhận chứng chỉ quốc gia theo khung ngoại ngữ 6 bậc. Đồng thời, chấp nhận đánh giá trình độ tiếng Anh khách quan và chuẩn mực hơn thông qua các chứng chỉ IELTS, TOEFL. Việc này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu sinh hoàn tất chương trình tiến sĩ. Thời gian tới, rất có thể Việt Nam sẽ xuất hiện nhiều tiến sĩ hơn nhưng chất lượng thì khó tăng.

Thứ ba, quy chế mới quy định, số lượng nghiên cứu sinh mà mỗi giáo sư được phép hướng dẫn tại một thời điểm nhất định tăng thêm 2, tương ứng với phó giáo sư là 1. So với quy chế cũ, việc nới lỏng này có thể sẽ góp phần tăng nhanh số lượng tiến sĩ được đào tạo.

Ba vấn đề được nêu trên liên quan trực tiếp đến chất lượng đào tạo tiến sĩ. Việc nới lỏng này góp phần tăng số lượng tiến sĩ được đào tạo mỗi năm nhưng về chất lượng thì khó tăng lên so với quy chế cũ.

Bộ GD&ĐT nên tăng cường quyền tự chủ hơn nữa cho các trường đại học trong việc đào tạo tiến sĩ. Quy chế là quy định mức tối thiểu và cho phép các trường đại học được phép xây dựng chuẩn riêng trong việc đào tạo tiến sĩ và không mâu thuẫn với quy chế mới của Bộ.

Đồng thời, Bộ GD&ĐT cũng cần cân nhắc thêm việc đào tạo tiến sĩ ứng dụng (đặc biệt là đối với một số lĩnh vực đặc thù), không nhất thiết phải có bài báo khoa học trên các tạp chí uy tín trong luận án tiến sĩ, mà luận án tiến sĩ có thể chỉ là các kết quả nghiên cứu ứng dụng trong thực tiễn.

Hội nhập hay lạc hậu?

Những quan điểm khá thú vị và bất ngờ về việc nới lỏng của quy chế mới về đào tạo tiến sĩ rất cần được bàn thêm.

Lo ngại gia tăng tiến sĩ ‘dởm’ khi hạ chuẩn đào tạo - 2

Chỉ khi công bố kết quả nghiên cứu trên các diễn đàn khoa học rộng lớn thì mới nâng được chất lượng.

Theo đó, việc chấp nhận các công bố trên tạp chí trong nước đạt chất lượng tốt sẽ là động lực để các tạp chí này phấn đấu nâng cao chất lượng, tiệm cận với các tiêu chuẩn quốc tế. Vấn đề này khá tế nhị. Việc nâng chất lượng một tạp chí khoa học phải được cụ thể hóa bằng chất lượng của lãnh đạo tạp chí, hội đồng thẩm định tạp chí và quan trọng là đẳng cấp của các tác giả gửi bài đăng công bố trên tạp chí này.

Nếu các nghiên cứu sinh công bố công trình trên những tạp chí này thì đương nhiên là tốt, trước mắt là về mặt số bài, nhưng nếu nói là để nâng chất lượng và tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế thì nên cân nhắc thêm. Bởi, nghiên cứu sinh cũng chỉ là những người đang học làm nghiên cứu và năng lực của họ rất khác nhau.

Từng có ý kiến cho rằng một số lĩnh vực chỉ có thể công bố ở Việt Nam. Tuy nhiên, quan điểm như vậy không đúng tinh thần nghiên cứu khoa học; nghiên cứu khoa học là không biên giới. Chỉ khi công bố kết quả nghiên cứu trên các diễn đàn khoa học rộng lớn thì mới nâng được chất lượng.

Khi chúng ta sử dụng các sản phẩm công nghệ thì hay ưa chuộng “made in USA, made in Japan, made in Finland…” thì cớ sao trong công bố kết quả chỉ trên các diễn đàn khoa học “made in Viet Nam”.

Ngay cả lĩnh vực nghệ thuật, nhân văn, chúng ta cũng luôn quan tâm hoặc thưởng thức các sản phẩm ngoại. Tương tự vậy, các tạp chí, hội thảo quốc tế luôn chào đón sự khác biệt và các ấn phẩm chất lượng trên thế giới sẽ luôn chấp nhận, không phân biệt về địa lý.

Nhiều người lập luận, cộng đồng khoa học quốc tế khó chấp nhận các nghiên cứu mang tính đặc thù của Việt Nam như lịch sử Việt Nam, Triết học Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh… Đây là nhận định chủ quan không đúng với tinh thần khoa học.

Ở các cơ sở dữ liệu khoa học uy tín trên thế giới, học giả công bố rất nhiều kết quả nghiên cứu về các lĩnh vực trên. Do đó, rất cần các nhà khoa học hàng đầu của Việt Nam cũng công bố về những đặc thù để quảng bá, thông tin và phản biện thêm với các học giả quốc tế. Đây là cơ hội vừa nâng cao đẳng cấp khoa học và vừa bảo vệ hình ảnh đất nước trước cộng đồng khoa học quốc tế.

Ví dụ, khi tìm kiếm thông tin “sea disputes” (tranh chấp biển, đảo) trong cở sở dữ liệu Web of Science (ISI, Mỹ), có ngay 47 công trình công bố về vấn đề này. Tuy nhiên, trong số 47 kết quả tìm kiếm ấy không tìm thấy công trình nào từ Việt Nam, hầu hết là học giả từ Trung Quốc. Việc không có (hoặc ít) học giả Việt Nam tham gia công bố kết quả nghiên cứu này trên các tạp chí uy tín hế giới cũng là một thiệt thòi cho đất nước trong quá trình đấu tranh cho chủ quyền biển, đảo thân yêu của tổ quốc. Các nhà khoa học nên coi đây là câu hỏi cơ bản dành cho các nhà sử học hàng đầu của Việt Nam.

Mua bài báo quốc tế

Từng có người lo lắng, nếu yêu cầu chuẩn luận án tiến sĩ cao thì dễ dẫn đến việc “mua bán” trong công bố khoa học. Nhưng đã gọi là mua bán thì chuẩn nào cũng có thể mua bán cả. Nguy hiểm hơn, khi chuẩn càng thấp thì có thể việc mua bán càng dễ dàng hơn, giá rẻ hơn, nhưng chúng ta khó phát hiện hơn vì ít bị cộng đồng khoa học quốc tế quan tâm.

Ngoài ra, ý kiến này cũng na ná kiểu như: đi xe máy thì dễ gây tai nạn và dễ chết người hơn đi xe đạp nên chúng ta nên bỏ xe máy và chỉ nên đi xe đạp thôi, và hệ quả là cùng nhau lạc hậu.

Nhiều người cho rằng, quy chế đào tạo tiến sĩ mới sẽ làm giảm việc mua bán công trình. Ý kiến này cũng thú vị nhưng thực sự bất ngờ. Theo logic thông thường, yêu cầu sản phẩm càng dễ, việc mua bán càng thuận lợi và dễ dàng thực hiện hơn. Nếu yêu cầu sản phẩm càng cao thì việc mua bán sẽ khó hơn vì giá cao hơn và cũng dễ bị phát hiện (do phải công khai).

Việc vi phạm tính liêm khiết đối với các công bố ISI/Scopus sẽ dễ bị phát hiện hơn các công bố tạp chí trong nước. Bởi, các công bố ISI/Scopus nhận được sự quan tâm nhiều hơn từ cộng đồng khoa học trên thế giới.

TS. Lê Văn Út(Trường Đại học Tôn Đức Thắng)
Bình luận
vtcnews.vn