Cả thế giới đều biết rằng Trung Quốc dùng vũ lực để cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam cách đây 40 năm.
Hành vi dùng vũ lực cưỡng chiếm lãnh thổ thuộc chủ quyền quốc gia khác là vi phạm Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
Đó là phân tích của tiến sĩ, luật sư Hoàng Ngọc Giao - viện trưởng Viện Nghiên cứu chính sách, pháp luật và phát triển. Ông Giao cho rằng:
Cả thế giới đều biết rằng Trung Quốc dùng vũ lực để cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam cách đây 40 năm. Hành vi dùng vũ lực cưỡng chiếm lãnh thổ thuộc chủ quyền quốc gia khác là vi phạm Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
Đến nay, với việc hạ đặt giàn khoan Haiyang Shiyou 981 (HD 981), Trung Quốc đã trắng trợn xâm phạm chủ quyền Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng công pháp quốc tế và Luật biển quốc tế. Căn cứ vào quy định của Công ước năm 1982 của Liên Hiệp Quốc về Luật biển, chúng ta hoàn toàn có thể khởi kiện Trung Quốc.
Ít nhất 2 vụ kiện
- Cơ chế giải quyết vụ kiện ở các tòa án quốc tế hiện quy định ra sao? Chúng ta nên bắt đầu như thế nào?
Công ước Luật biển năm 1982 có hẳn một phần quy định rất chi tiết về cơ chế giải quyết tranh chấp. Hiện nay, cũng không chỉ có Tòa án công lý quốc tế là nơi để các quốc gia có thể nhờ cậy giải quyết tranh chấp liên quan đến vấn đề chủ quyền lãnh thổ. Đối với biển đảo còn có một cơ chế giải quyết tranh chấp riêng, đó là Tòa án luật biển được thành lập theo Công ước Luật biển năm 1982.
Chúng ta cần nói rõ là ở biển Đông thì Trung Quốc có yêu sách về vùng biển và yêu sách về đảo, quần đảo. Đối với đảo, quần đảo là yêu sách về lãnh thổ, bao gồm đảo và phạm vi 12 hải lý tính từ đảo. Còn theo Công ước Luật biển năm 1982 với vùng mở rộng 200 hải lý thì quốc gia có quyền chủ quyền chứ không gọi là lãnh thổ.
Như vậy, có thể thấy rõ hai vụ kiện. Một là vụ kiện liên quan đến chủ quyền Hoàng Sa là vụ kiện về tranh chấp lãnh thổ. Hai là vụ kiện về hành vi của Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam - thì lại là vụ kiện chống lại hành vi Trung Quốc xâm phạm quyền chủ quyền của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Vụ kiện này cần phải đưa ra Tòa án luật biển quốc tế.
Nhưng Trung Quốc không chỉ chiếm đóng trái phép Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa mà còn đưa ra nhiều yêu sách với phần lớn diện tích biển Đông, tức là cả một vùng nước rất rộng lớn. Họ đưa ra “đường lưỡi bò”, họ cấm đánh bắt hải sản, họ buộc tàu bè đánh cá phải xin phép...
Các yêu sách này không những vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam mà còn của một số quốc gia khác. Ví dụ, với hành vi ra lệnh cấm các nước trong khu vực đánh bắt cá trên phần lớn diện tích biển Đông, Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng các quy định của công ước về quy chế pháp lý của các vùng biển. Nói cách khác, Trung Quốc đã ngang ngược phớt lờ các quy định về quyền của các quốc gia ven biển về vùng đặc quyền kinh tế.
Có thể hình dung rằng Trung Quốc đã tự coi biển Đông như ao nhà của mình và tự ý áp đặt luật chơi. Với những hành vi như vậy, nó xâm hại đến tự do hàng hải và các quyền hợp pháp của các nước khác, thì quốc gia bị ảnh hưởng có thể kiện ra Tòa án luật biển theo cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc. Nghĩa là không nhất thiết cả hai bên tranh chấp phải đồng ý thì mới giải quyết.
Philippines đã vận dụng cơ chế này và Tòa án luật biển đang thụ lý vụ việc. Với việc Trung Quốc tuyên bố vùng phải xin phép đánh cá trên phần lớn diện tích biển Đông vừa rồi, chúng ta hoàn toàn có thể kiện ra Tòa án luật biển.
- Ông dự liệu thế nào về những khó khăn chúng ta phải đối mặt khi muốn đưa vụ kiện về chủ quyền lãnh thổ ra Tòa án công lý quốc tế?
Đến nay, Tòa án công lý quốc tế đã giải quyết rất nhiều vụ việc liên quan đến tranh chấp lãnh thổ giữa các quốc gia. Ví dụ như vụ tranh chấp ở biển Bắc giữa Đan Mạch, Na Uy; vụ tranh chấp giữa các nước châu Phi có bờ biển liền kề chồng lấn, gần đây là vụ tranh chấp khu vực đền Preah Vihear giữa Thái Lan và Campuchia...
Nói như vậy để biết các vụ kiện về tranh chấp lãnh thổ không phải là chưa có tiền lệ. Tuy nhiên, việc đưa ra Tòa án công lý quốc tế về mặt thủ tục cũng có những khó khăn, mà khó khăn lớn nhất là Trung Quốc không bao giờ muốn đưa vụ việc này ra cơ quan tài phán quốc tế để giải quyết.
Vì vậy, ai cũng dự liệu được rằng nếu Việt Nam có nộp đơn thì tòa cũng không giải quyết được do Trung Quốc sẽ phản đối. Việt Nam cũng có thể khiếu nại vụ việc này ra Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhưng Trung Quốc là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an nên họ có quyền phủ quyết.
Không chỉ ngoại giao mà còn phải qua con đường luật pháp
- Như vậy việc “mời” Trung Quốc ra Tòa án công lý quốc tế là không khả thi. Vậy chúng ta được gì nếu đơn phương đệ đơn kiện?
Tôi cho rằng rất khó có khả năng để chúng ta đạt được mục đích là tòa thụ lý vụ kiện, bởi Trung Quốc sẽ phản đối. Tuy nhiên, chúng ta sẽ đạt được nhiều mục đích khác. Trước hết là chúng ta có một bộ hồ sơ pháp lý đàng hoàng. Chúng ta thách thức Trung Quốc ra trước công lý quốc tế. Và khi đó dư luận quốc tế sẽ đặt ra câu hỏi với Trung Quốc rằng nếu anh hành xử đúng pháp luật quốc tế thì tại sao lại từ chối thẩm quyền xem xét vụ việc tại tòa án?
Tôi có thể khẳng định rằng khi chúng ta có được bộ hồ sơ pháp lý như vậy sẽ có tác động rất mạnh mẽ đến nhận thức của nhân dân Việt Nam và nhân dân quốc tế về những căn cứ pháp lý, lịch sử xác nhận chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Qua đó, nhân dân Việt Nam và quốc tế hiểu rõ rằng ai là người có đủ tư cách, có đủ căn cứ pháp lý để làm chủ Hoàng Sa và Trường Sa.
Việc đưa vụ kiện theo thủ tục trọng tài bắt buộc về việc Trung Quốc ngang nhiên vi phạm công ước khi ra lệnh cấm đánh bắt, lệnh buộc phải xin phép khi khai thác cá trên biển Đông, cũng như hành vi Trung Quốc hiện nay đang xâm lấn vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam là việc đã đến lúc phải làm ngay, và có thuận lợi để làm.
Lúc này, bị đơn là một, tức Trung Quốc, còn nguyên đơn bắt đầu có hai là Việt Nam và Philippines (tất nhiên hồ sơ pháp lý của Philippines sẽ khác của Việt Nam). Như vậy, chúng ta góp thêm một tiếng nói không chỉ để bảo vệ quyền của chính mình mà đòi hỏi Trung Quốc tuân thủ nghiêm chỉnh Luật biển quốc tế, tôn trọng “luật chơi văn minh” với các quốc gia khác trong các quan hệ liên quan tới biển Đông.
- Ai sẽ là người đứng ra khởi kiện?
Theo pháp luật quốc tế, các quốc gia được đại diện bởi nhà nước, do đó việc khởi kiện phải đứng danh của Nhà nước và Chính phủ phải làm việc này. Tất nhiên thủ tục, hồ sơ pháp lý đối với một vụ kiện như thế này là rất phức tạp, công phu. Thông thường các nước đều phải lập ra một nhóm công tác chuyên tâm làm việc này, kể cả thuê các luật sư quốc tế để xây dựng hồ sơ.
Nếu chúng ta có quyết tâm cao và ý thức rằng trong bối cảnh hiện nay, để bảo vệ được chủ quyền đối với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các quyền chủ quyền của mình trên biển Đông thì con đường đấu tranh không chỉ dừng lại ở ngoại giao mà còn phải qua luật pháp. Như vậy, chúng ta cần có quyết tâm và bản lĩnh chính trị để đưa vụ này ra kiện. Chúng ta thấy rằng Philippines làm việc này chỉ trong thời gian ngắn, họ vừa nỗ lực ngoại giao vừa nỗ lực về pháp lý.
LÊ KIÊN thực hiện
» Chuyên gia Biển Đông: Cảnh giác với 'chiến thuật bắp cải' của Trung Quốc
» Gần 550 triệu hỗ trợ CSB và tàu ngư dân bị TQ tấn công
» Trung Quốc đặt giàn khoan trái phép: Những phát ngôn đanh thép về chủ quyền VN
Theo TTO
Tàu hải cảnh Trung Quốc (phải) uy hiếp tàu kiểm ngư Việt Nam - Ảnh cắt từ clip của Cảnh sát biển Việt Nam |
Cả thế giới đều biết rằng Trung Quốc dùng vũ lực để cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam cách đây 40 năm. Hành vi dùng vũ lực cưỡng chiếm lãnh thổ thuộc chủ quyền quốc gia khác là vi phạm Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
Đến nay, với việc hạ đặt giàn khoan Haiyang Shiyou 981 (HD 981), Trung Quốc đã trắng trợn xâm phạm chủ quyền Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng công pháp quốc tế và Luật biển quốc tế. Căn cứ vào quy định của Công ước năm 1982 của Liên Hiệp Quốc về Luật biển, chúng ta hoàn toàn có thể khởi kiện Trung Quốc.
Ít nhất 2 vụ kiện
- Cơ chế giải quyết vụ kiện ở các tòa án quốc tế hiện quy định ra sao? Chúng ta nên bắt đầu như thế nào?
Ông Hoàng Ngọc Giao - Ảnh: Việt Dũng |
Chúng ta cần nói rõ là ở biển Đông thì Trung Quốc có yêu sách về vùng biển và yêu sách về đảo, quần đảo. Đối với đảo, quần đảo là yêu sách về lãnh thổ, bao gồm đảo và phạm vi 12 hải lý tính từ đảo. Còn theo Công ước Luật biển năm 1982 với vùng mở rộng 200 hải lý thì quốc gia có quyền chủ quyền chứ không gọi là lãnh thổ.
Như vậy, có thể thấy rõ hai vụ kiện. Một là vụ kiện liên quan đến chủ quyền Hoàng Sa là vụ kiện về tranh chấp lãnh thổ. Hai là vụ kiện về hành vi của Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam - thì lại là vụ kiện chống lại hành vi Trung Quốc xâm phạm quyền chủ quyền của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Vụ kiện này cần phải đưa ra Tòa án luật biển quốc tế.
Nhưng Trung Quốc không chỉ chiếm đóng trái phép Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa mà còn đưa ra nhiều yêu sách với phần lớn diện tích biển Đông, tức là cả một vùng nước rất rộng lớn. Họ đưa ra “đường lưỡi bò”, họ cấm đánh bắt hải sản, họ buộc tàu bè đánh cá phải xin phép...
Các yêu sách này không những vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam mà còn của một số quốc gia khác. Ví dụ, với hành vi ra lệnh cấm các nước trong khu vực đánh bắt cá trên phần lớn diện tích biển Đông, Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng các quy định của công ước về quy chế pháp lý của các vùng biển. Nói cách khác, Trung Quốc đã ngang ngược phớt lờ các quy định về quyền của các quốc gia ven biển về vùng đặc quyền kinh tế.
Có thể hình dung rằng Trung Quốc đã tự coi biển Đông như ao nhà của mình và tự ý áp đặt luật chơi. Với những hành vi như vậy, nó xâm hại đến tự do hàng hải và các quyền hợp pháp của các nước khác, thì quốc gia bị ảnh hưởng có thể kiện ra Tòa án luật biển theo cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc. Nghĩa là không nhất thiết cả hai bên tranh chấp phải đồng ý thì mới giải quyết.
Philippines đã vận dụng cơ chế này và Tòa án luật biển đang thụ lý vụ việc. Với việc Trung Quốc tuyên bố vùng phải xin phép đánh cá trên phần lớn diện tích biển Đông vừa rồi, chúng ta hoàn toàn có thể kiện ra Tòa án luật biển.
- Ông dự liệu thế nào về những khó khăn chúng ta phải đối mặt khi muốn đưa vụ kiện về chủ quyền lãnh thổ ra Tòa án công lý quốc tế?
Đến nay, Tòa án công lý quốc tế đã giải quyết rất nhiều vụ việc liên quan đến tranh chấp lãnh thổ giữa các quốc gia. Ví dụ như vụ tranh chấp ở biển Bắc giữa Đan Mạch, Na Uy; vụ tranh chấp giữa các nước châu Phi có bờ biển liền kề chồng lấn, gần đây là vụ tranh chấp khu vực đền Preah Vihear giữa Thái Lan và Campuchia...
Nói như vậy để biết các vụ kiện về tranh chấp lãnh thổ không phải là chưa có tiền lệ. Tuy nhiên, việc đưa ra Tòa án công lý quốc tế về mặt thủ tục cũng có những khó khăn, mà khó khăn lớn nhất là Trung Quốc không bao giờ muốn đưa vụ việc này ra cơ quan tài phán quốc tế để giải quyết.
Vì vậy, ai cũng dự liệu được rằng nếu Việt Nam có nộp đơn thì tòa cũng không giải quyết được do Trung Quốc sẽ phản đối. Việt Nam cũng có thể khiếu nại vụ việc này ra Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhưng Trung Quốc là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an nên họ có quyền phủ quyết.
Không chỉ ngoại giao mà còn phải qua con đường luật pháp
- Như vậy việc “mời” Trung Quốc ra Tòa án công lý quốc tế là không khả thi. Vậy chúng ta được gì nếu đơn phương đệ đơn kiện?
Tôi cho rằng rất khó có khả năng để chúng ta đạt được mục đích là tòa thụ lý vụ kiện, bởi Trung Quốc sẽ phản đối. Tuy nhiên, chúng ta sẽ đạt được nhiều mục đích khác. Trước hết là chúng ta có một bộ hồ sơ pháp lý đàng hoàng. Chúng ta thách thức Trung Quốc ra trước công lý quốc tế. Và khi đó dư luận quốc tế sẽ đặt ra câu hỏi với Trung Quốc rằng nếu anh hành xử đúng pháp luật quốc tế thì tại sao lại từ chối thẩm quyền xem xét vụ việc tại tòa án?
Tôi có thể khẳng định rằng khi chúng ta có được bộ hồ sơ pháp lý như vậy sẽ có tác động rất mạnh mẽ đến nhận thức của nhân dân Việt Nam và nhân dân quốc tế về những căn cứ pháp lý, lịch sử xác nhận chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Qua đó, nhân dân Việt Nam và quốc tế hiểu rõ rằng ai là người có đủ tư cách, có đủ căn cứ pháp lý để làm chủ Hoàng Sa và Trường Sa.
Việc đưa vụ kiện theo thủ tục trọng tài bắt buộc về việc Trung Quốc ngang nhiên vi phạm công ước khi ra lệnh cấm đánh bắt, lệnh buộc phải xin phép khi khai thác cá trên biển Đông, cũng như hành vi Trung Quốc hiện nay đang xâm lấn vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam là việc đã đến lúc phải làm ngay, và có thuận lợi để làm.
Lúc này, bị đơn là một, tức Trung Quốc, còn nguyên đơn bắt đầu có hai là Việt Nam và Philippines (tất nhiên hồ sơ pháp lý của Philippines sẽ khác của Việt Nam). Như vậy, chúng ta góp thêm một tiếng nói không chỉ để bảo vệ quyền của chính mình mà đòi hỏi Trung Quốc tuân thủ nghiêm chỉnh Luật biển quốc tế, tôn trọng “luật chơi văn minh” với các quốc gia khác trong các quan hệ liên quan tới biển Đông.
- Ai sẽ là người đứng ra khởi kiện?
Theo pháp luật quốc tế, các quốc gia được đại diện bởi nhà nước, do đó việc khởi kiện phải đứng danh của Nhà nước và Chính phủ phải làm việc này. Tất nhiên thủ tục, hồ sơ pháp lý đối với một vụ kiện như thế này là rất phức tạp, công phu. Thông thường các nước đều phải lập ra một nhóm công tác chuyên tâm làm việc này, kể cả thuê các luật sư quốc tế để xây dựng hồ sơ.
Nếu chúng ta có quyết tâm cao và ý thức rằng trong bối cảnh hiện nay, để bảo vệ được chủ quyền đối với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các quyền chủ quyền của mình trên biển Đông thì con đường đấu tranh không chỉ dừng lại ở ngoại giao mà còn phải qua luật pháp. Như vậy, chúng ta cần có quyết tâm và bản lĩnh chính trị để đưa vụ này ra kiện. Chúng ta thấy rằng Philippines làm việc này chỉ trong thời gian ngắn, họ vừa nỗ lực ngoại giao vừa nỗ lực về pháp lý.
LÊ KIÊN thực hiện
» Chuyên gia Biển Đông: Cảnh giác với 'chiến thuật bắp cải' của Trung Quốc
» Gần 550 triệu hỗ trợ CSB và tàu ngư dân bị TQ tấn công
» Trung Quốc đặt giàn khoan trái phép: Những phát ngôn đanh thép về chủ quyền VN
Theo TTO
Bình luận