Sáp nhập Chiến khu - quyết định sáng suốt
20h03 ngày 19/12/1946, đèn điện Hà Nội phụt tắt. Đại bác từ pháo đài Láng bắn vào các mục tiêu của quân Pháp trong thành phố, báo hiệu Toàn quốc kháng chiến. Ngay sau đó, cả Hà Nội rền vang tiếng súng, bừng lên khói lửa.
Khi cuộc kháng chiến trên toàn quốc bùng nổ, Mặt trận Hà Nội được coi là chiến trường chính trong trận tổng giao chiến đầu tiên giữa ta và địch. Hà Nội cần giam chân quân địch để tạo điều kiện cho cả nước chuyển sang chiến tranh. Ngoài ra, trận đánh ở Thủ đô phải tiêu biểu cho tinh thần kháng chiến của cả nước.
Trong khi đó, các chiến khu ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có nhiệm vụ tiêu diệt hoặc gây thiệt hại nặng cho những đơn vị đồn trú còn các chiến khu ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ đẩy mạnh chiến tranh du kích để khiến địch khó đưa quân tăng viện ra phía Bắc.
Sau những giờ giao chiến đầu tiên, nhìn chung quân ta đã giành được lợi thế ở Hà Nội và nhiều địa phương khác. Những chiến tích, những cách đánh địch sáng tạo liên tiếp được báo về Bộ Tổng chỉ huy.

Đại bác của quân ta ở pháo đài Láng. (Ảnh: Nguyễn Bá Khoản/Tư liệu TTXVN)
Sang ngày 20/12/1946, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ làng Tây Mỗ đi thăm mặt trận trong nội thành Hà Nội, trực tiếp chứng kiến chiến sĩ ta chiến đấu với quân địch, cũng như nêu ra những lưu ý với Chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Nội Vương Thừa Vũ (sau này trở thành Trung tướng, Phó Tổng tham mưu trưởng QĐND Việt Nam).
Dù yên lòng về tinh thần chiến đấu của quân ta, nhưng trên đường về, một nỗi băn khoăn dấy lên trong lòng Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Lực lượng bộ đội ta quá mỏng. Mặt trận Hà Nội chỉ có 5 tiểu đoàn, trong khi Bộ Tổng chỉ huy lại không có lực lượng dự bị nào.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhanh chóng tính toán giải pháp: Sáp nhập Mặt trận Hà Nội vào chiến khu II (gồm: Hà Đông, Sơn Tây, Hòa Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Lai Châu, Sơn La).
Trước ngày Toàn quốc kháng chiến, cả nước được chia thành 12 chiến khu (thường gọi tắt là khu). Trong đó, Hà Nội là chiến khu đặc biệt và mang tên Chiến khu XI. Ngoài ra, ở Bắc Bộ có các Chiến khu I, II, III, X, XII.
Quyết định sáp nhập Chiến khu XI vào Chiến khu II được Đại tướng Võ Nguyên Giáp ghi lại trong hồi ký Chiến đấu trong vòng vây: “Tôi nảy ra ý nghĩ có thể sáp nhập khu XI vào khu II. Hà Nội cùng với hai tỉnh Sơn Tây và Hà Đông sẽ trở thành khu vực tiền phương của Chiến khu II. Như vậy, Mặt trận Hà Nội có nguồn bổ sung bộ đội và một hậu phương tương đối rộng để huy động sức người, sức của kéo dài cuộc chiến đấu”.
Bên cạnh đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng quyết định điều 2 tiểu đoàn của chiến khu II tăng cường cho Hà Nội, gấp rút xây dựng 1 trung đoàn chủ lực trực thuộc Bộ và mỗi chiến khu phải nắm chắc 1 tiểu đoàn chủ lực.

Chiến sĩ cảm tử quân ôm bom ba càng, sẵn sàng tiêu diệt xe tăng địch trên đường phố Hà Nội. (Ảnh: Nguyễn Bá Khoản/Tư liệu TTXVN)
Ngày 25/12/1946, trong cuộc họp tại làng Vạn Phúc, Bộ Tổng Chỉ huy công bố quyết định sáp nhập Chiến khu XI vào Chiến khu II. Chỉ huy trưởng Vương Thừa Vũ và chính ủy Trần Độ của Mặt trận Hà Nội được chỉ định làm chỉ huy phó và phó chính ủy của chiến khu II, đồng thời tiếp tục nhiệm vụ lãnh đạo Mặt trận Hà Nội.
Quyết định sáp nhập Chiến khu XI vào Chiến khu II cũng được Trung tướng Vương Thừa Vũ thuật lại trong hồi ký Những chặng đường chiến đấu: “Một quyết định thật sáng suốt. Thế là từ nay Mặt trận Hà Nội có một địa bàn hậu phương rộng rãi để xoay trở và có thêm lực lượng hùng hậu của các tỉnh Hà Đông, Sơn Tây, Hòa Bình, Hà Nam. Các lực lượng vũ trang của Nhân dân các tỉnh sẽ luân phiên nhau vào tham gia chiến đấu ở các cửa ô Hà Nội. Từ nay, Hà Nội không những có đủ lực lượng trực tiếp chiến đấu mà còn có lực lượng dự bị cơ động ở bên ngoài làm cho thế trận thêm mạnh, thêm khả năng để chiến đấu hãm địch nhiều ngày trong Hà Nội”.
Sắp xếp lại lực lượng - thành lập "Trung đoàn Thủ đô"
Trước ngày Toàn quốc kháng chiến, quân Pháp đã có quá trình gây hấn và chiếm đóng nhiều vị trí trong nội thành Hà Nội. Lực lượng đông đảo của địch được trang bị vũ khí vượt trội, trong quân ta còn hạn chế về trình độ tác chiến và thiếu thốn vũ khí.
Để giam chân kẻ địch, Bộ Tổng chỉ huy và Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội chủ trương kết hợp lối đánh trận địa với cách đánh du kích. Ta dựng chiến lũy với nhiều chướng ngại vật trên đường phố, biến mỗi căn nhà thành một pháo đài, tổ chức nhiều đội quân nhỏ thoắt ẩn thoắt hiện trong thành phố, tiến hành hàng loạt trận đánh nhỏ nhưng được chuẩn bị kỹ lưỡng.
Về cách sử dụng lực lượng, dàn thế trận, ta buộc địch, thu hút địch vào một nơi, để các nơi khác tiến công tiêu diệt. Trung tướng Vương Thừa Vũ gọi thế trận này là “trùng độc chiến”.

Quân và dân Thủ đô lập chốt chiến đấu trên phố Hàng Bài. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Thời điểm ấy, Hà Nội được chia làm 3 liên khu. Liên khu 1 với tiểu đoàn 101 Vệ quốc quân và các lực lượng tự vệ, công an xung phong hình thành một hạt nhân chiến đấu quyết tử ở ngay trung tâm thành phố. Lực lượng ở Liên khu 2 và Liên khu 3 dãn ra các cửa ô cùng dân quân du kích ở ngoại thành bao bọc xung quanh, buộc địch phải phân tán lực lượng để đối phó.
Khi thế trận “trùng độc chiến” hình thành trong những ngày cuối năm 1946, quân Pháp tưởng chừng lực lượng ở Liên khu 1 bị mắc kẹt, bị vây chặt nhưng kỳ thực địch đã rơi vào thế bị giằng co trước sau.
Sang đầu năm 1947, Bộ Chỉ huy Mặt trận Hà Nội họp bàn bố trí thế trận mới để tiếp tục giam chân địch thêm một thời gian và phát triển lực lượng ta về lâu dài. Sau khi được cấp trên chuẩn y, Bộ Chỉ huy Mặt trận Hà Nội quyết định sắp xếp lại lực lượng, tổ chức lại chiến đấu cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới.
Trung tướng Vương Thừa Vũ viết trong hồi ký: “Tại Liên khu I, chúng tôi thống nhất các lực lượng Vệ quốc đoàn, công an, tự vệ để thành lập trung đoàn Liên khu I… Việc thành lập trung đoàn Liên khu I, các đồng chí Trần Quốc Hoàn, Nguyễn Văn Trân, Trần Độ và tôi bàn bạc rất thận trọng, cân nhắc mọi mặt, cuối cùng chúng tôi nhất trí tán thành, vì có thống nhất lực lượng mới thống nhất chỉ huy, sức mạnh càng tăng lên, ta càng giữ Hà Nội được lâu, càng chứng minh đường lối kháng chiến lâu dài của Đảng là đúng đắn. Chúng tôi báo cáo ý kiến đề nghị này lên Bộ Tổng chỉ huy và được Bộ đồng ý ngay”.

Chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô thề quyết tử để Tổ quốc quyết sinh. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Ngày 6/1/1947, trung đoàn Liên khu I chính thức thành lập. Ngày 12/1/1947, Hội nghị quân sự toàn quốc tặng trung đoàn danh hiệu “Trung đoàn Thủ đô”.
Qua Tết nguyên đán Đinh Hợi, chiến sự tại Hà Nội càng thêm ác liệt. Trung đoàn Thủ đô cùng các lực lượng ở Liên khu 2 và Liên khu 3 liên tiếp lập chiến công.
Ngày 14/2/1947, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị rút Trung đoàn Thủ đô ra ngoài và chuyển lời khen của Bác Hồ: "Các chú giam chân địch được một tháng là thắng lợi, đến nay giữ được Hà Nội hai tháng là đại thắng lợi".
Đêm 17/2/1947, các chiến sĩ trung đoàn Thủ đô mưu trí vượt qua vòng vây dày đặc của quân địch, vượt sông Hồng rút quân an toàn lên chiến khu, khép lại 60 ngày đêm chiến đấu hào hùng của quân và dân Thủ đô.
Những người chiến sĩ khi được lệnh ra đi đã hứa với Hà Nội “sẽ trở về”. Và lời hứa đó trở thành sự thật vào ngày 10/10/1954 khi Trung đoàn Thủ đô vinh dự dẫn đầu đội hình Đại đoàn 308 trở về tiếp quản Thủ đô Hà Nội.
Tư liệu tham khảo:
Tổng tập hồi ký - Đại tướng Võ Nguyên Giáp (NXB Quân đội nhân dân, 2006)
Những chặng đường chiến đấu - Trung tướng Vương Thừa Vũ (NXB Quân đội nhân dân, 2005)






Bình luận