Đồng thời, những cải cách của cơ quan thuế thời gian qua được cộng đồng doanh nghiệp ghi nhận, thể hiện ở kết quả chung đánh giá sự hài lòng của doanh nghiệp năm 2014 là 71% và năm 2016 là 75% doanh nghiệp hài lòng với cải cách thủ tục hành chính (TTHC) thuế.
Trong 3 năm qua, Chính phủ đã ban hành các Nghị quyết số 19/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp để cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành nhiều chỉ thị, văn bản chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện.
Trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế đã xây dựng Kế hoạch hành động ban hành kèm theo Quyết định số 1201/QĐ-TCT ngày 6/8/2014, Quyết định số 415/QĐ-TCT ngày 20/3/2015 và Quyết định số 1033/QĐ-TCT ngày 08/6/2016 để triển khai các Nghị quyết nhằm thực hiện mục tiêu tháo gỡ khó khăn và tạo thuận lợi cho người nộp thuế; đơn giản hoá thủ tục hành chính, nâng cao trách nhiệm, kỷ luật kỷ cương trong thực thi công vụ, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Kế hoạch hành động là một hệ thống các nhóm công việc và giải pháp (34 nhóm giải pháp với 157 đầu công việc cụ thể) được triển khai đồng bộ từ trung ương đến cơ sở. Chương trình hành động được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của ngành, là thước đo để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ, bình xét thi đua khen thưởng năm đối với các tập thể, cá nhân liên quan.
Để thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động, Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế đã ban hành các Chỉ thị số 01/CT-TCT ngày 19/8/2014, Chỉ thị số 01/CT-TCT ngày 21/6/2016 chỉ đạo cơ quan thuế các cấp tăng cường kỷ luật, kỷ cương, chấn chỉnh lề lối làm việc, thái độ, tác phong ứng xử của công chức thuế với người nộp thuế và đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người nộp thuế, tạo ra đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn bộ hệ thống, nhờ đó tạo bước chuyển biến căn bản trong chấp hành chế độ công vụ và phục vụ người nộp thuế của công chức thuế.
Triển khai thực hiện Kế hoạch hành động, Tổng cục Thuế đã chủ động rà soát, nghiên cứu và tham khảo các đánh giá của một số tổ chức quốc tế (Ngân hàng thế giới, Tổ chức tài chính quốc tế) về thời gian kê khai, nộp thuế của doanh nghiệp Việt Nam để xác định số giờ kê khai nộp thuế chênh lệch giữa Việt Nam với bình quân 6 nước ASEAN ở từng khâu (về tần suất khai, nộp thuế; về hồ sơ; nội dung khai thuế; về phương thức khai; nộp thuế;...). Trên cơ sở đó, đã đề xuất nhiều giải pháp về cải cách TTHC thuế, giảm thời gian và thủ tục nộp thuế cho người dân, doanh nghiệp.
Công tác cải cách thủ tục hành chính của Tổng cục Thuế đã đạt được một số kết quả chủ yếu sau:
Về thể chế chính sách
Tổng cục Thuế đã trình Bộ Tài chính, Chính phủ, Quốc hội ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật để sửa đổi các thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, trong đó: Trình Quốc hội ban hành 01 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 5 Luật thuế; Trình Chính phủ ban hành 01 Nghị định sửa đổi, bổ sung 4 Nghị định; Trình Bộ Tài chính ban hành 01 Thông tư sửa đổi, bổ sung 7 thông tư để sửa đổi, bổ sung, đơn giản hóa chính sách và thủ tục hành chính thuế cho doanh nghiệp với việc: nâng mức doanh thu khai thuế giá trị gia tăng (GTGT) theo quý từ dưới 20 tỷ đồng/năm lên 50 tỷ đồng/năm để giảm số lần khai thuế, nộp thuế GTGT cho các doanh nghiệp từ 12 lần/năm xuống còn 4 lần/năm; Sửa đổi các quy định về kê khai, tính thuế để phù hợp giữa việc khai thuế và ghi sổ kế toán, giảm bớt thời gian ghi chép, kê khai điều chỉnh của doanh nghiệp; đơn giản hóa mẫu biểu tờ khai thuế GTGT, giảm bớt các chỉ tiêu kê khai thông tin về hóa đơn chứng từ để doanh nghiệp có thể tự động kết xuất tờ khai thuế từ phần mềm kế toán; Bỏ quy định doanh nghiệp phải gửi Bảng kê hóa đơn HHDV mua vào bán ra kèm theo tờ khai thuế GTGT gửi cơ quan thuế; Bỏ quy định doanh nghiệp phải khai thuế TNDN tạm tính hàng quý, giảm số lần khai thuế TNDN từ 5 lần/năm xuống còn 1 lần/năm hay việc bãi bỏ quy định khống chế một số khoản chi phí hợp lý hợp lệ khi tính thuế TNDN,...
Qua đó đã cắt giảm thời gian thực hiện được khoảng 420 giờ, số giờ thực hiện thủ tục hành chính về thuế giảm từ 537 giờ xuống chỉ còn 117 giờ, đồng thời giảm được 8 lần khai và nộp thuế GTGT, giảm được 4 lần nộp tờ khai thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) tạm tính.
Về ứng dụng công nghệ thông tin
Ngành Thuế đã triển khai mạnh mẽ các dự án ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thu nộp thuế, giảm thời gian chi phí và tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp khi làm các thủ tục về thuế. Đến nay, cơ bản các thủ tục hành chính thuế của doanh nghiệp đã được thực hiện qua phương thức điện tử, hệ thống khai thuế và nộp thuế điện tử đã được triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố, cụ thể là đến cuối năm 2016:
- Về khai thuế qua mạng: Với hơn 566 nghìn doanh nghiệp tham gia sử dụng dịch vụ khai thuế qua mạng, đạt 99,81% trên tổng số hơn 567 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động trên cả nước; số lượng hồ sơ khai thuế điện tử đã tiếp nhận và xử lý là trên 35,8 triệu hồ sơ.
- Về nộp thuế điện tử: Hoàn thành kết nối triển khai nộp thuế điện tử với 43 ngân hàng thương mại. Số lượng doanh nghiệp đã đăng ký tham gia sử dụng dịch vụ với cơ quan thuế là hơn 555 nghìn doanh nghiệp trên tổng số hơn 567 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động, đạt tỷ lệ 97,90%. Số lượng doanh nghiệp hoàn thành đăng ký dịch vụ với ngân hàng chiếm tỷ lệ 97,06 % trên tổng số doanh nghiệp đang hoạt động; với số tiền đã nộp ngân sách nhà nước (NSNN) từ trong năm 2016 là trên 492 nghìn tỷ đồng và trên 2,2 triệu lượt giao dịch nộp thuế điện tử.
- Về hoàn thuế điện tử: Trình Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 99/2016/TT-BTC ngày 29/6/2016 hướng dẫn về quản lý hoàn thuế GTGT, trình Bộ Tài chính ban hành Bộ Tiêu chí phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế và lựa chọn đối tượng hồ sơ có dấu hiệu rủi ro để bổ sung kế hoạch kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế và Bộ Tiêu chí lựa chọn đối tượng người nộp thuế có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra tại trụ sở người nộp thuế; Quyết định số 2790/QĐ-BTC ngày 27/12/2016 về việc áp dụng thí điểm tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết hoàn thuế giá trị gia tăng bằng phương thức điện tử; Đến nay, Tổng cục Thuế đã triển khai thí điểm tại 02 thành phố: Hà Nội, Hải Phòng. Từ 1/3/2017, triển khai thí điểm tại 11 tỉnh, thành phố gồm: Đồng Nai, Đà Nẵng, Cần Thơ, TP.HCM, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Bình Dương, Kon Tum, Khánh Hòa, Vĩnh Phúc, Bình Thuận và tiếp tục triển khai mở rộng toàn quốc.
- Về thực hiện hóa đơn điện tử, hóa đơn có mã xác thực: Trong năm 2016, thực hiện thí điểm cho 200 doanh nghiệp trên địa bàn TP.Hà Nội và TP.HCM sử dụng hóa đơn điện tử có mã xác thực; tổng số hóa đơn được xác thực: 2.608.706 hóa đơn, tổng tiền doanh thu: 21.116.688.145.597 VNĐ, tổng thuế GTGT: 992.548.372.600 VNĐ.
Về thực hiện công khai minh bạch quy trình, quy chế về quản lý thuế để người nộp thuế biết, theo dõi và giám sát , đảm bảo 100% hồ sơ hoàn thuế được kiểm tra theo quy định và 100% hồ sơ khiếu nại của người nộp thuế được giải quyết đúng thời gian quy định của pháp luật; Đồng thời, rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa, chuẩn hóa và công khai TTHC.
Thực hiện rà soát để ban hành, sửa đổi, bổ sung 44 Quy trình nghiệp vụ, trong đó 30 Quy trình liên quan trực tiếp đến người nộp thuế để đổi mới cơ chế quản lý thuế, đáp ứng yêu cầu cải cách về thực hiện kê khai, nộp thuế điện tử theo mục tiêu Nghị quyết đề ra và công khai minh bạch quy trình, quy chế để người nộp thuế biết, theo dõi, giám sát.
Bên cạnh đó, xác định cải cách TTHC phải thực hiện ngay trong quá trình xây dựng thể chế, qua đó kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới TTHC, thực hiện nghiêm việc rà soát, chuẩn hóa TTHC theo quy định.
Năm 2016, Tổng cục Thuế đã trình Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 1500/QĐ-BTC về chuẩn hóa các TTHC lĩnh vực thuế. Theo đó, đến hết năm 2016, số TTHC lĩnh vực thuế giảm từ 435 xuống còn 300 (300 TTHC đã được chuẩn hóa theo quy định), giảm 135 TTHC so với thời điểm 31/12/2014. Toàn bộ TTHC lĩnh vực thuế đều được công khai trên website và tại trụ sở cơ quan thuế các cấp.
Về đồng bộ với cải cách thể chế và hiện đại hóa quản lý
Ngành Thuế đã chuyển sang áp dụng phương pháp quản lý thuế dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý thuế; hạn chế việc thanh tra, kiểm tra chồng chéo, trùng lặp; vừa đảm bảo ngăn chặn, phòng ngừa và xử lý nghiêm minh những trường hợp cố tình gian lận, trốn thuế và vừa không làm phiền đến các doanh nghiệp tuân thủ tốt nghĩa vụ thuế. Theo đó, trình Quốc hội sửa đổi bổ sung Luật Quản lý thuế để bổ sung cơ sở pháp lý cho việc quản lý thuế dựa trên đánh giá rủi ro; Trình Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 204/2015/TT-BTC quy định về áp dụng rủi ro trong quản lý thuế. Đồng thời, hoàn thiện, xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý thuế; xây dựng bộ tiêu chí đánh giá rủi ro và rà soát sửa đổi bổ sung tất cả các quy trình nghiệp vụ, nhất là các quy trình liên quan đến người nộp thuế.
Ngoài ra, ngành Thuế đã triển khai giải pháp thực hiện điện tử hóa từ Tổng cục Thuế xuống Chi cục Thuế; cán bộ, công chức thuế tác nghiệp theo hướng chuyển từ chứng từ giấy sang chứng từ điện tử… để đảm bảo việc giải quyết hồ sơ, thủ tục hành chính thuế cho doanh nghiệp được nhanh chóng, kịp thời và tiến tới áp dụng kiểm soát việc thực thi công vụ của cán bộ công chức thuế trên hệ thống công nghệ thông tin, góp phần nhằm hạn chế sự can thiệp, tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ thuế với doanh nghiệp trong quá trình khai và nộp thuế.
Về phối hợp với các Bộ/ngành, các đơn vị có liên quan để thực hiện cải cách TTHC
- Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp mã số thuế tự động cho doanh nghiệp thông qua hệ thống ứng dụng kết nối trao đổi thông tin với cơ quan đăng ký kinh doanh. Theo đó, Hệ thống thông tin đăng ký thuế tự động xử lý thông tin, tạo mã số và truyền sang Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp ngay trong ngày.
- Phối hợp với Cục đăng kiểm Việt Nam (Bộ Giao thông vận tải), Cục Cảnh sát giao thông (Bộ Công an) về thí điểm triển khai khai và nộp thuế điện tử LPTB ô tô, xe máy.
- Phối hợp với Văn phòng đăng ký đất đai/ Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trong việc giải quyết TTHC liên quan đến nghĩa vụ tài chính về đất đai.
Về triển khai có hiệu quả các giải pháp nhằm đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, chấn chỉnh thái độ, tác phong ứng xử của công chức thuế với người nộp thuế và đẩy mạnh cải cách TTHC, tạo thuận lợi cho người nộp thuế.
Như vậy, thời gian qua ngành thuế cơ bản đã hoàn thành được mục tiêu, yêu cầu mà Nghị quyết số 19/NQ-CP của Chính phủ, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Theo đó, kết quả xếp hạng Chỉ số Nộp thuế chung của Việt Nam theo Báo cáo môi trường kinh doanh 2017 167/190 quốc gia và vùng lãnh thổ, tăng 11 bậc so với Báo cáo môi trường kinh doanh 2016. Đồng thời, những cải cách của cơ quan thuế thời gian qua được cộng đồng doanh nghiệp ghi nhận, thể hiện ở kết quả chung đánh giá sự hài lòng của doanh nghiệp năm 2014 là 71% và năm 2016 là 75% doanh nghiệp hài lòng với cải cách TTHC thuế.
Trong năm 2017, ngành thuế tiếp tục đề ra các mục tiêu và giải pháp thực hiện nghị quyết 19-2017/NQ-CP của Chính phủ, phấn đấu đến năm 2020 thời gian nộp thuế tối đa là 110 giờ/năm.
Bình luận