- Ông đánh giá ra sao về việc Việt Nam bắt đầu mở lại đường bay quốc tế?
- Theo dõi cách làm của các nước trên thế giới như Thái Lan, Singapore thì hiện các nước bạn đã tạo ra những “Travel bubbles” (khối, cụm du lịch an toàn), là những thoả thuận song phương hoặc đa phương để quy định rõ những quy định về trách nhiệm, công việc của nước khởi hành, nước đón khách làm sao đủ chi tiết và chất lượng về các quy định phòng và kiểm soát dịch.
Chỉ khi nào việc mở hàng không quốc tế dựa trên những thoả thuận chi tiết như thế mới tạo được niềm tin cho người đi lại về quy định rõ ràng, đi lại an toàn. Nếu không, nước ta sẽ rơi vào tình trạng các nước không có bắt buộc về giãn cách nhưng người dân sẽ tự giãn cách, họ sẽ không thấy an toàn khi đi lại và họ sẽ không đi. Trong trường hợp đó, các hãng cũng không có khách để mà bay, hệ số sử dụng ghế dưới 50% thì càng bay càng lỗ.
- Tuy nhiên cũng có quan ngại về việc mở lại đường bay quốc tế sẽ nhập dịch về Việt Nam?
- Tôi nghĩ Việt Nam nên sớm thương thảo với các nước liên quan, kiểm soát dịch bệnh tốt để tạo ra các khối du lịch, dựa trên cơ sở đó để mở lại hàng không và du lịch quốc tế ở quy mô mang tính thực chất, tần suất bay đủ nhiều, số lượng khách đi lại đủ lớn để tạo ra hiệu quả trong việc nối lại các dịch vụ hàng không và du lịch.
Việc mở cửa hàng không có nhập dịch hay không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mở, lựa chọn những quốc gia nào để bắt đầu việc mở. Thứ hai là chúng ta thoả thuận với các quốc gia đó về những quy trình về việc 2 bên phải làm. Vậy nên, không thể nói chung chung là mở cửa sẽ nhập dịch về nếu công tác phối hợp kiểm dịch giữa các quốc gia tốt. Đấy là lý do tại sao Malaysia và Singapore mở được mà không quá lo ngại.
Đơn cử như Malaysia và Singapore mở cửa thông thương cả đường bộ với số lượng người qua lại rất nhiều nhưng họ có những thoả thuận về quy trình tác nghiệp mà 2 bên phải làm nên không sợ việc xuất nhập khẩu dịch qua lại giữa hai quốc gia.
Quan trọng là những thoả thuận này phải chi tiết và tỷ mỷ, là sự phối hợp giữa các trung tâm kiểm dịch, các đơn vị khác tham gia vào công tác phòng chống dịch ở nước ta và các nước đối tác.
- Để nối lại đường bay quốc tế đến Việt Nam, trước tiên phải gỡ “rào cản” tâm lý e ngại của khách đối với việc di chuyển bằng máy bay bởi nỗi lo bị lây nhiễm trong quá trình di chuyển và phải cách ly một thời sau khi đến sân bay điểm đến. Ông nghĩ gì về vấn đề này?
- Chúng ta nên tìm ra những thoả thuận với các nước liên quan, kiểm soát dịch bệnh tốt để tạo ra các khối du lịch càng sớm càng tốt để mở cửa trên những nguyên tắc rất chặt chẽ, rõ ràng, minh bạch và cách mở phải tạo được niềm tin cho người đi lại và người dân thì lúc đó mới có thị trường được. Nếu không lượng khách sẽ không nhiều, các doanh nghiệp càng kinh doanh càng lỗ nên cần có sự phối hợp liên ngành tốt trong chuyện này.
Thận trọng là tốt, nhưng nếu thận trọng đến mức không làm gì hoặc chỉ mở trên hình thức thì các doanh nghiệp hàng không và du lịch sẽ bị thiệt hại không đáng có. Thận trọng có thể khiến chúng ta bỏ qua những cơ hội, thiếu những sự sáng tạo cũng như trách nhiệm xúc tiến công việc để tạo ra cơ hội trong bối cảnh hiện nay.
Nếu chúng ta không tiếp cận bay quốc tế đón khách du lịch theo khối, cụm du lịch an toàn trên cơ sở thoả thuận song phương hoặc đa phương thì không khu vực nào trên thế giới hiện nay có thể mở được chuyến bay quốc tế. Và, chúng ta sẽ lại bỏ lỡ cơ hội phục hồi hàng không, du lịch và phát triển kinh tế.
- Xin cảm ơn ông!
Bình luận